Đề thi tuyển sinh lớp 10 THPT chuyên Nguyễn Trãi môn Ngữ văn - Sở GD&ĐT Hải Dương (Kèm hướng dẫn chấm)
Câu 1(2 điểm):
Chuyện người con gái Nam Xương của Nguyễn Dữ kết thúc bằng một chi tiết kì ảo. Nhận xét về chi tiết này, có ý kiến cho rằng: “ Tính bi kịch của truyện vẫn tiềm ẩn ở ngay trong cái lung linh kì ảo”. (Theo SGV Ngữ văn 9, tập 1, NXB Giáo dục 2005, trang 50).
Nhận xét đó có đúng không? Vì sao?
Câu 2 ( 3 điểm):
Từ nội dung câu chuyện sau, hãy trình bày suy nghĩ của em về việc cho và nhận trong cuộc sống.
Người ăn xin
Một người ăn xin đã già. Đôi mắt ông đỏ hoe, nước mắt ông giàn giụa, đôi môi tái nhợt, áo quần tả tơi. ông chìa tay xin tôi.
Tôi lục hết túi nọ đến túi kia, không có lấy một xu, không có cả khăn tay, chẳng có gì hết. ông vẫn đợi tôi. Tôi chẳng biết làm thế nào. Bàn tay tôi run run nắm chặt lấy bàn tay run rẩy của ông:
Xin ông đừng giận cháu! Cháu không có gì cho ông cả.
ông nhìn tôi chăm chăm, đôi môi nở nụ cười:
Cháu ơi, cảm ơn cháu! Như vậy là cháu đã cho lão rồi.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Đề thi tuyển sinh lớp 10 THPT chuyên Nguyễn Trãi môn Ngữ văn - Sở GD&ĐT Hải Dương (Kèm hướng dẫn chấm)
sở giáo dục và đào tạo Hải Dương đề chính thức kì thi tuyển sinh lớp 10 THPT chuyên Nguyễn Trãi - năm học 2009-2010 môn thi : nGữ VĂN Thời gian: 150 phút (không kể thời gian giao đề) Ngày thi: 8/7/2009 Đề thi gồm : 01 trang Câu 1(2 điểm): Chuyện người con gái Nam Xương của Nguyễn Dữ kết thúc bằng một chi tiết kì ảo. Nhận xét về chi tiết này, có ý kiến cho rằng: “ Tính bi kịch của truyện vẫn tiềm ẩn ở ngay trong cái lung linh kì ảo”. (Theo SGV Ngữ văn 9, tập 1, NXB Giáo dục 2005, trang 50). Nhận xét đó có đúng không? Vì sao? Câu 2 ( 3 điểm): Từ nội dung câu chuyện sau, hãy trình bày suy nghĩ của em về việc cho và nhận trong cuộc sống. Người ăn xin Một người ăn xin đã già. Đôi mắt ông đỏ hoe, nước mắt ông giàn giụa, đôi môi tái nhợt, áo quần tả tơi. ông chìa tay xin tôi. Tôi lục hết túi nọ đến túi kia, không có lấy một xu, không có cả khăn tay, chẳng có gì hết. ông vẫn đợi tôi. Tôi chẳng biết làm thế nào. Bàn tay tôi run run nắm chặt lấy bàn tay run rẩy của ông: Xin ông đừng giận cháu! Cháu không có gì cho ông cả. ông nhìn tôi chăm chăm, đôi môi nở nụ cười: Cháu ơi, cảm ơn cháu! Như vậy là cháu đã cho lão rồi. Khi ấy tôi chợt hiểu ra: cả tôi nữa, tôi cũng vừa nhận được một cái già đó của ông. ( Theo Tuốc-ghê-nhép. Dẫn từ sách giáo khoa Ngữ Văn 9, Tập 1, NXB GD – 2007, trang 22) Câu 3(5 điểm): Vẻ đẹp bình dị, tự nhiên mà sâu sắc của bài thơ Đồng chí ( Chính Hữu). Hết. Họ và tên thí sinh:..Số báo danh Chữ ký của giám thị 1:.Chữ ký của giám thị 2:.. II. yêu cầu cụ thể Câu 1: Trình bày được các ý sau: - Nhận xét đó là hoàn toàn đúng (0,5 điểm). - Vì: + Câu chuyện kết thúc bằng chi tiết kì ảo: bóng Vũ Nương hiện về trong lễ giải oan chốc lát rồi biến mất. Chi tiết tạo nên cách kết thúc phần nào có hậu cho truyện (0,25 điểm). + Tuy nhiên sự trở về của Vũ Nương chỉ là ảo ảnh, là một chút an ủi cho người bạc phận. Chi tiết phản ánh một thực tế: Người chết thì không thể sống lại, hạnh phúc đã tan vỡ cũng không thể hàn gắn, Trương Sinh không thể chuộc lại những lỗi lầm của mình. Kết cục của câu chuyện vẫn là bi kịch đau đớn. (1 điểm). + Chi tiết thể hiện niềm cảm thương của tác giả đối với số phận bi thảm của người phụ nữ trong xã hội phong kiến (0,25 điểm). (Văn viết đủ ý, rõ ràng, mạch lạc: cho điểm tối đa; mắc lỗi về diễn đạt tuỳ các mức độ khác nhau: trừ điểm câu 1 từ 0.25 đến 0.5 điểm) Câu 2: Bài viết có thể trình bày theo các cách khác nhau nhưng đại thể nêu được các ý sau: - Truyện kể về việc cho và nhận của cậu bé và người ăn xin, qua đó ngợi ca cách ứng cao đẹp, nhân ái giữa con người với con người. - Truyện gợi cho chúng ta nhiều suy ngẫm về việc cho và nhận trong cuộc sống: + Cái cho và nhận: đâu phải chỉ là vật chất mà có thể là những giá trị tinh thần, có khi chỉ là một lời nói, một cử chỉ.. + Thái độ khi cho và nhận: cần chân thành, có văn hoá. - Xác định thái độ sống và cách ứng xử của bản thân: Tôn trọng, quan tyâm, chia sẻ với mọi người. Câu 3: Bài viết có thể trình bày theo những cách khác nhau nhưng đại thể có các ý cơ bản sau: - Thể thơ tự do; câu chữ, hình ảnh giản dị, chân thực, cô đọng, chủ yếu lấy từ hiện thực cuộc sống những năm đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp; sự hoà hợp tự nhiên của ngôn ngữ, hình ảnh và cảm xúc. - Chiều sâu của bài thơ là ở tình cảm đồng chí đồng đội bền chặt, thắm thiết. + Tình đồng chí đồng đội bắt nguồn từ sự tương đồng về cảnh ngộ, giai cấp. + Tình đồng chí đồng đội thể hiện ở sự cảm thông sâu xa với những tâm tư, nỗi lòng, sự thấu hiểu những hi sinh thầm lặng mà cao cả giữa những người lính. + Tình đồng chí đồng đội nảy nở trong sự chia sẻ những gian lao, thiếu thốn; là động lực giúp người lính vượt qua mọi khó khăn gian khổ, sát cánh bên nhau chiến đấu. + Tình đồng chí đồng đội nảy nở từ trách nhiệm thiêng liêng đối với Tổ quốc, gắn với lí tưởng cao đẹp: chiến đấu cho hoà bình, tự do.
File đính kèm:
- de_thi_tuyen_sinh_lop_10_thpt_chuyen_nguyen_trai_mon_ngu_van.doc