Giáo án tăng tiết Ngữ văn Lớp 9 - Tuần 9-12

Câu 1 (trang 122 sgk Ngữ Văn 9 Tập 1): Khái niệm từ đơn và từ phức:

- Từ đơn: là từ chỉ gồm một tiếng.

- Từ phức: là từ gồm hai hay nhiều tiếng trở lên. Có hai loại là từ ghép và từ láy:

+ Từ ghép: là từ mà các tiếng có quan hệ với nhau về nghĩa.

+ Từ láy: là từ giữa các tiếng có quan hệ láy âm với nhau.

docx 15 trang Bình Lập 17/04/2024 60
Bạn đang xem tài liệu "Giáo án tăng tiết Ngữ văn Lớp 9 - Tuần 9-12", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

Tóm tắt nội dung tài liệu: Giáo án tăng tiết Ngữ văn Lớp 9 - Tuần 9-12

Giáo án tăng tiết Ngữ văn Lớp 9 - Tuần 9-12
TUẦN: 9	 NGÀY VÀ LỚP DẠY: 9A3 (02/11)
TIẾT 1: LUYỆN TẬP: TỔNG KẾT TỪ VỰNG
I. Từ đơn và từ phức
Câu 1 (trang 122 sgk Ngữ Văn 9 Tập 1): Khái niệm từ đơn và từ phức:
   - Từ đơn: là từ chỉ gồm một tiếng.
   - Từ phức: là từ gồm hai hay nhiều tiếng trở lên. Có hai loại là từ ghép và từ láy:
       + Từ ghép: là từ mà các tiếng có quan hệ với nhau về nghĩa.
       + Từ láy: là từ giữa các tiếng có quan hệ láy âm với nhau.
Câu 2 (trang 122 sgk Ngữ Văn 9 Tập 1):
   - Từ láy: nho nhỏ, gật gù, lạnh lùng, xa xôi, lấp lánh.
  - Từ ghép: ngặt nghèo, giam giữ, bó buộc, tươi tốt, bọt bèo, cỏ cây, đưa đón, nhường nhịn, rơi rụng, mong muốn.
Câu 3 (trang 123 sgk Ngữ Văn 9 Tập 1):
   - Từ láy giảm nghĩa: trăng trắng, đem đẹp, nho nhỏ, xôm xốp.
   - Từ láy tăng nghĩa: nhấp nhô, sạch sành sanh, sát sàn sạt.
II. Thành ngữ
Câu 1 (trang 123 sgk Ngữ Văn 9 Tập 1):
Thành ngữ là tập hợp từ cố định, biểu thị một ý nghĩa hoàn chỉnh. Nghĩa của thành ngữ thường biểu hiện qua một số phép chuyển nghĩa như ẩn dụ, hoán dụ, so sánh...
Câu 2 (trang 123 sgk Ngữ Văn 9 Tập 1):
   - Tổ hợp là thành ngữ:
       + Đánh trông bỏ dùi: làm việc bỏ dở, không đến nơi đến chốn, thiếu trách nhiệm.
       + Được voi đòi tiên: tham lam, được cái này lại muốn có cái khác.
       + Nước mắt cá sấu: sự thương xót, thông cảm giả tạo đánh lừa người khác.
   - Tổ hợp là tục ngữ:
       + Gần mực thì đen, gần đèn thì sáng: Hoàn cảnh, môi trường sống có ảnh hưởng lớn đến tính cách, phẩm chất con người.
       + Chó treo mèo đậy: Thức ăn treo cao để tránh chó ăn, và đậy kỹ để không cho mèo lục đớp, ý khuyên cảnh giác cửa nẻo rương hòm để phòng trộm cuỗm mất.
Câu 3 (trang 123 sgk Ngữ Văn 9 Tập 1):
   - Thành ngữ có yếu tố chỉ động vật:
       + Chó cắn áo rách: đã khó khăn lại gặp thêm tai họa.
       + Ếch ngồi đáy giếng: những kẻ sống trong môi trường nhỏ hẹp, ít tiếp xúc mà cho là mình ghê gớm, kiêu căng, tự phụ.
→ Đặt câu:
       + Gia cảnh đã nghèo khó, lại thêm chứng ốm đau, đúng là chó cắn áo rách mà.
       + Hắn ta tưởng mình tài giỏi, có năng khiếu nhưng cứ quanh quẩn một vùng đất bé nhỏ thì cũng chỉ là ếch ngồi đáy giếng mà thôi.
   - Thành ngữ có yếu tố chỉ thực vật:
       + Dây cà ra dây muống: nói, viết rườm rà, dài dòng.
       + Cưỡi ngựa xem hoa: làm việc qua loa, đại khái, không đi sâu chi tiết.
→ Đặt câu:
      + Cậu nói ngắn gọn thôi, cứ dây cà ra dây muống thế thì ai hiểu được!
       + Dù chỉ là bài đọc thêm nhưng cũng rất quan trọng, không thể học kiểu cưỡi ngựa xem hoa được đâu.
Câu 4 (trang 123 sgk Ngữ Văn 9 Tập 1): Dẫn chứng về việc sử dụng thành ngữ trong văn chương:
   - Vợ chàng quỷ quái tinh ma
   Phen này kẻ cắp bà già gặp nhau.
       (Truyện Kiều – Nguyễn Du)
   - Thân em vừa trắng lại vừa tròn
   Bảy nổi ba chìm với nước non.
       (Bánh trôi nước – Hồ Xuân Hương)
   - Quả cau nho nhỏ miếng trầu hôi
   Này của Xuân Hương mới quệt rồi
   Có phải duyên nhau thì thắm lại
   Đừng xanh như lá bạc như vôi.
       (Mời trầu – Hồ Xuân Hương)
III. Nghĩa của từ
Câu 1 (trang 123 sgk Ngữ Văn 9 Tập 1):
Nghĩa của từ là nội dung (sự vật, tính chất, hoạt động, quan hệ,...) mà từ biểu thị.
Câu 2 (trang 123 sgk Ngữ Văn 9 Tập 1):
Cách hiểu (a) đúng. Các cách hiểu khác không phù hợp (câu b), hoặc hiểu sai (câu c, d).
Câu 3 (trang 123 sgk Ngữ Văn 9 Tập 1):
   - (a) là cụm danh từ, không thể lấy một cụm danh từ để giải thích cho một tính từ (độ lượng).
   - (b) là cách giải thích đúng là vì dùng các tính từ để giải thích cho một tính từ.
IV. Từ nhiều nghĩa và hiện tượng chuyển nghĩa của từ
Câu 1 (trang 124 sgk Ngữ Văn 9 Tập 1):
   - Từ có thể có một nghĩa hay nhiều nghĩa.
   - Chuyển nghĩa là hiện tượng thay đổi nghĩa của từ, tạo ra từ nhiều nghĩa.
       + Nghĩa gốc: nghĩa ban đầu, làm cơ sở để hình thành các nghĩa khác.
       + Nghĩa chuyển: nghĩa được hình thành trên cơ sở nghĩa gốc.
Câu 2 (trang 124 sgk Ngữ Văn 9 Tập 1):
Từ "hoa" trong "lệ hoa" được dùng theo nghĩa chuyển. Nghĩa này xuất hiện tạm thời trong văn cảnh, vì vậy không thể coi đây là hiện tượng chuyển nghĩa làm xuất hiện từ nhiều nghĩa.
V. Từ đồng âm
Câu 1 (trang 124 sgk Ngữ Văn 9 Tập 1):
Từ đồng âm là những từ giống nhau về âm thanh nhưng nghĩa hoàn toàn khác nhau, không liên quan gì đến nhau.
Câu 2 (trang 124 sgk Ngữ Văn 9 Tập 1):
a. Có hiện tượng từ nhiều nghĩa. Vì từ lá trong bài thơ dùng theo nghĩa gốc, còn từ lá trong Công viên là lá phổi của thành phố dùng theo nghĩa dựa trên nghĩa gốc là tạo ra chất nuôi cây.
b. Có hiện tượng từ đồng âm. Một nghĩa “đường” là đường đi, một nghĩa “đường” là đường dùng để ăn, hai nghĩa không liên quan gì đến nhau.
VI. Từ đồng nghĩa
Câu 1 (trang 125 sgk Ngữ Văn 9 Tập 1):
Từ đồng nghĩa là các từ có nghĩa giống nhau hoặc gần giống nhau (trong một số trường hợp có thể thay thế nhau)
Câu 2 (trang 125 sgk Ngữ Văn 9 Tập 1):
Chọn cách hiểu (d). Từ đồng nghĩa có thể thay thế cho nhau trong một số trường hợp, đa số các trường hợp là đồng nghĩa không hoàn toàn, không thể thay thế.
Câu 3 (trang 125 sgk Ngữ Văn 9 Tập 1):
Từ "xuân" có thể thay thế từ "tuổi" vì từ "xuân" đã chuyển nghĩa theo phương thức hoán dụ (lấy một khoảng thời gian trong năm thay cho năm, tức lấy bộ phận thay cho toàn thể). Việc thay từ "xuân" cho thấy tinh thần lạc quan và sự dí dỏm (vì mùa xuân là hình ảnh sự tươi trẻ, của sức sống mạnh mẽ).
VII. Từ trái nghĩa
Câu 1 (trang 125 sgk Ngữ Văn 9 Tập 1): Từ trái nghĩa là những từ có nghĩa trái ngược nhau.
Câu 2 (trang 125 sgk Ngữ Văn 9 Tập 1): Các cặp từ trái nghĩa: xấu – đẹp, xa – gần, rộng – hẹp, voi – chuột.
Câu 3 (trang 125 sgk Ngữ Văn 9 Tập 1): Các cặp từ trái nghĩa:
   - Cùng nhóm với sống – chết: chiến tranh – hòa bình → thể hiện hai khái niệm loại trừ nhau.
   - Cùng nhóm với già – trẻ : yêu – ghét, cao – thấp, nông – sâu, giàu – nghèo, đực – cái → các khái niệm đối lập nhau.
VIII. Cấp độ khái quát của nghĩa từ ngữ
Câu 1 (trang 126 sgk Ngữ Văn 9 Tập 1):
Nghĩa của một từ có thể hẹp hay rộng hơn nghĩa của từ khác gọi là cấp độ khái quát của từ ngữ.
Câu 2 (trang 126 sgk Ngữ Văn 9 Tập 1):
IX. Trường từ vựng
Câu 1 (trang 126 sgk Ngữ Văn 9 Tập 1): Trường từ vựng là tập hợp của những từ có ít nhất một nét chung về nghĩa.
Câu 2 (trang 126 sgk Ngữ Văn 9 Tập 1): Các từ cùng trường từ vựng:
   - Yêu nước, thương nòi, các cuộc khởi nghĩa: cùng trường nghĩa về tinh thần yêu nước → khơi dậy tinh thần nhân dân, lòng yêu Tổ quốc, tố cáo thực dân.
   - Tắm và bể: cùng tính chất → tăng tính biểu cảm, tăng sức tố cáo.
C. RÚT KINH NGHIỆM
+ GV cần hướng HS ôn tập kiến thức lý thuyết trước ở nhà. 
+ GV cần cho thêm BT ngoài SGK thì HS sẽ làm tốt các bài tập hơn.
TUẦN: 9	 NGÀY VÀ LỚP DẠY: 9A3 (05/11)
TIẾT 2: LUYỆN TẬP “ĐỒNG CHÍ”
A. LÝ THUYẾT:
+ Tiểu sử tác giả: Chính Hữu.
+ Xuất xứ, hoàn cảnh sáng tác: Đồng chí: được sáng tác vào đầu năm 1948, sau khi tác giả cùng đồng đội tham gia chiến dịch Việt Bắc (1947).
+ Ý nghĩa nhan đề: Đồng chí có nghĩa là cùng chí hướng, lí tưởng cao đẹp. Đây cũng là cách xưng hô của những người cùng trong một đoàn thể cách mạng. Đặt nhan đề bài thơ là “Đồng chí”, Chính Hữu muốn nhấn mạnh tình đồng chí chính là bản chất cách mạng của tình đồng đội gắn bó keo sơn và thể hiện sâu sắc tình đồng đội.
+ Giá trị nội dung và nghệ thuật: Ghi nhớ SGK.
B. LUYỆN TẬP
Bài tập 1: Viết bài văn trình bày cảm nhận của em về hình ảnh người lính trong bài thơ “Đồng chí”.
I. Mở bài:
- Giới thiệu đôi nét về tác giả Chính Hữu và bài thơ “Đồng chí”.
+ Đồng chí là sáng tác của nhà thơ Chính Hữu viết vào năm 1948, thời kì đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp.
+ Chân dung người lính hiện lên chân thực, giản dị với tình đồng chí cao đẹp.
Ví dụ: Hình ảnh người lính trong chiến đấu luôn là một đề tài bất tận của thơ ca kháng chiến, mỗi một thời kỳ người lính lại toát lên những vẻ đẹp khác nhau. Trong kháng chiến chống Pháp, Chính Hữu đưa đến cho chúng ta hình ảnh về những người lính giản dị
II. Thân bài:
* Hình ảnh người lính hiện lên hết sức chân thực.
- Họ là những người nông dân cùng chung cảnh ngộ xuất thân nghèo khổ nhưng đôn hậu, mộc mạc, cùng chung mục đích, lý tưởng chiến đấu.
* Hình ảnh người lính hiện lên với những vẻ đẹp của đời sống tâm hồn, tình cảm:
- Là sự thấu hiểu những tâm tư, nỗi lòng của nhau, cùng chia sẻ những gian lao, thiếu thốn của cuộc đời người lính. Đó là sự ốm đau, bệnh tật.
- Là sự đoàn kết, thương yêu, kề vai sát cánh bên nhau cùng nhau chiến đấu chống lại quân thù tạo nên bức tượng đài bất diệt về hình ảnh người lính trong kháng chiến chống Pháp.
- Tình cảm gắn bó thầm lặng mà cảm động của người lính: “Thương nhau tay nắm lấy bàn tay”.
- Sự lãng mạn và lạc quan: “miệng cười buốt giá”; hình ảnh “đầu súng trăng treo” gợi nhiều liên tưởng phong phú.
III. Kết bài:
- Khẳng định vẻ đẹp của hình tượng người lính trong kháng chiến chống Pháp.
- Hình tượng người lính được thể hiện qua các chi tiết, hình ảnh, ngôn ngữ giản dị, chân thực cô đọng mà giàu sức biểu cảm, hướng về khai thác đời sống nội tâm.
Bài tập 2: Cảm nhận của em về hình ảnh “đầu súng trăng treo” trong bài thơ “Đồng chí” 
Bài tập 3: Bài thơ “Đồng chí” là sự kết hợp hài hòa giữa hiện thực và lãng mạn tạo nên bức tranh đẹp về người lính.” Hãy chỉ ra những yếu tố có trong bài thơ để làm sáng tỏ nhận định này. 
C. RÚT KINH NGHIỆM
+ HS cần ôn bài thật kĩ trước khi đến lớp => GV cần khảo bài theo hình thức giấy kiểm tra.
+ GV tập trung vào giúp HS biết viết bài văn phân tích bài thơ hoặc đoạn thơ qua câu 3.
TUẦN: 10	 NGÀY VÀ LỚP DẠY: 9A3 (09/11)
TIẾT 1: LUYỆN TẬP: “BÀI THƠ VỀ TIỂU ĐỘI XE KHÔNG KÍNH”
A. LÝ THUYẾT
* Taùc giaû: Phạm Tiến Duật.
* Xuất xứ, hoàn cảnh sáng tác: Bài thơ về tiểu đội xe không kính được sáng tác vào năm 1969 khi cuộc chống Mĩ đang đi vào giai đoạn ác liệt nhất, được in trong tập thơ “Vầng trăng quầng lửa”.
* Ý nghĩa nhan đề: Bài thơ về tiểu đội xe không kính: Mươn hình ảnh những chiếc xe không kính chắn gió và hình ảnh người lính lái xe, Phạm Tiến Duật kết hợp với hai chữ “bài thơ”, không chỉ nêu lên hiện thực khốc liệt của chiến tranh mà nhà thơ còn muốn nói về chất thơ của hiện thực ấy, chất thơ của tuổi trẻ thời kì chống Mĩ: dũng cảm, vượt lên gian khổ, nguy hiểm vì lí tưởng cao đẹp. 
* Giá trị nội dung và nghệ thuật: Ghi nhớ SGK.
B. LUYỆN TẬP: Viết bài văn trình bày cảm nhận của em về hình ảnh người lính trong bài thơ “Bài thơ về tiểu đội xe không kính”.
Mở bài:
“Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước
Mà lòng phơi phới dậy tương lai”.
(Theo chân Bác – Tố Hữu)
Câu thơ quen thuộc gợi trong lòng chúng ta biết bao suy tưởng. Hình ảnh những người trẻ tuổi từ biệt quê hương lên đường chiến đấu mãi mãi là biểu tượng đẹp của một dân tộc kiên cường, bất khuất. Chúng ta như được sống lại một thời hào hùng của dân tộc theo tiếng hát sôi nổi trẻ trung và cũng bình dị như cuộc đời người lính. Không biết đã có bao nhiêu bài thơ nói về họ – những chàng Thạch Sanh của thế kỉ hai mươi. Với Bài thơ về tiểu đội xe không kính, Phạm Tiến Duật cũng đóng góp “một tiếng hát sôi nổi trẻ trung” trong bản trường ca hào hùng ấy.
Thân bài:
Với quan niệm “chủ yếu đi tìm cái đẹp từ trong những diễn biến sôi động của cuộc sống”, Phạm Tiến Duật đưa tất cả những chất liệu hiện thực của cuộc sống chiến trường vào trong thơ một cách tự nhiên và chân thực. Cách tiếp cận hiện thực ấy đã đem lại cho thơ Phạm Tiến Duật một giọng điệu sôi nổi, trẻ trung, hồn nhiên, hóm hỉnh, tinh nghịch mà sâu sắc.
Thơ Phạm Tiến Duật tập trung thể hiện hình ảnh thế hệ trẻ trong cuộc kháng chiến chống Mĩ qua các hình tượng người lính và cô thanh niên xung phong trên tuyến đường Trường Sơn. Ở họ là phẩm chất anh hùng, gan dạ và hết sức trẻ trung. Tinh thần của họ hoàn toàn đối lập với hoàn cảnh và vượt lên trên hiện thực cuộc chiến ác liệt. Phẩm chất ấy được thể hiện ngay đầu bài thơ:
“Không kính không phải vì xe không có kính
Bom giật bom rung kính vỡ đi rồi”.
Xưa nay làm thơ, người ta kị đưa những hình ảnh thô vụng vào trong thơ. Để “mĩ lệ hóa” phương tiện đi lại và vận chuyển người ta thường lấy hình ảnh của “cỗ xe tam mã” (Puskin), “con tàu” (Chế Lan Viên) hay “con thuyền” (Huy Cận), “cánh buồm” (Hoàng trung Thông), chứ không ai lại vụng về như Phạm Tiến Duật, đưa cả chiếc xa tải hết sức trần trụi vào trong thơ. Ấy lại là chiếc “xe không có kính”, bị thương ở nhiều chỗ hết sức tàn tạ. Thế mà, hình ảnh chiếc xe lập tức trở thành linh hồn của câu thơ, gây được sự chú ý của người đọc.
Câu thơ như một lời giải thích hóm hỉnh, đầy tinh nghịch. Xe vốn có kính nhưng giờ nó không còn kính nữa là bởi do bom đạn kẻ thù tàn phá. Lời thơ tự nhiên đến mức buộc người ta phải tin ngay vào sự phân bua của các chàng trai lái xe dũng cảm: “Bom giật bom rung kính vỡ mất rồi”.
Chất thơ của câu thơ hiện ra chính trong vẻ tự nhiên đến mức khó ngờ của ngôn từ. Bằng việc giải thích ấy, tác giả đã tạo ấn tượng cho người đọc một cách cụ thể và sâu sắc về hiện thực chiến tranh khốc liệt, dữ dội, về cuộc chiến đấu gian khổ mà người lính phải trải qua. Hình ảnh những chiếc xe không kính vốn chẳng hiếm trong chiến tranh. Song phải có một hồn thơ nhạy cảm, có nét tinh nghịch, ngang tàn như Phạm Tiến Duật mới phát hiện ra được, đưa nó vào thơ và trở thành biểu tượng độc đáo của thơ ca thời chống Mĩ.
Tiếp sau khung kính vỡ, hình ảnh người lính hiện lên ung dung, tự tại sau tay lái:
“Ung dung buồng lái ta ngồi,
Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng”.
Nghệ thuật đảo ngữ với từ láy “ung dung” được đảo lên đầu câu thứ nhất và nghệ thuật điệp ngữ với từ “nhìn” được nhắc đi nhắc lại trong câu thơ thứ hai nhằm nhấn mạnh tư thế ung dung, bình tĩnh, tự tin của người lính lái xe. Những người chiến sĩ ấy đang ngạo nghễ ngồi trên xe, tự tin, bình tĩnh, làm chủ tình hình. Khẩu khí của họ thật mạnh mẽ: “ta”, càng làm cho những người lính ấy thêm oai phong, lẫm liệt.
Điệp ngữ “nhìn” nhấn lại đến ba lần, rõ ràng những người chiến sĩ lái xe rất cảnh giác, đôi mắt lúc nào cũng hướng thẳng đến mục tiêu, đó chính là tư thế sẵn sàng chiến đấu bất cứ lúc nào. Họ “nhìn thẳng” vào hiện thực cuộc chiến khốc liệt, nhìn thẳng vào những mất mát, hi sinh và sẵn sàng tiến tới. Họ không hề run sợ khi phải chiến đấu trong điều kiện thiếu bảo đảm, không an toàn.
Trong tư thế ung dung ấy, người lính lái xe có những cảm nhận rất riêng khi được tiếp xúc trực tiếp với thiên nhiên bên ngoài. Cả một thế giới rộng lớn tràn ngập trong buồng lái:
“Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng
Thấy con đường chạy thẳng vào tim
Thấy sao trời và đột ngột cánh chim
Như sa, như ùa vào buồng lái”.
Nhờ chiếc kính vỡ ấy mà họ đã cảm nhận được những cái mà trước đây dù ở rất gần họ không thể cảm nhận được. Họ thấy gió thổi cay đôi mắt, thấy con đường hiển hiện như chạy thẳng vào trong tim, thấy sao đêm sáng rực trên bầu trời và những cánh chim đột ngột lướt qua trước mặt. Tất cả cứ chực “như sa như ùa” vào buồng lái.
Tất cả được nhìn nhận một cách trìu mến thân thương chứ không phải là cản vật, là trở ngại có thể gây nguy hiểm cho người lính hay cản trở nhiệm vụ của họ. Thiên nhiên, vạn vật dường như cũng bay theo ra chiến trường. Tất cả điều này đã giúp người đọc cảm nhận được ở các anh nét hào hoa, kiêu bạc, lãng mạn và yêu đời của những người trẻ tuổi. Tất cả là hiện thực nhưng qua cảm nhận của nhà thơ đã trở thành những hình ảnh lãng mạn.
Một vẻ đẹp nữa làm nên bức chân dung tinh thần của người lính trong bài thơ chính là tinh thần lạc quan, sôi nổi, bất chấp khó khăn, nguy hiểm:
“Không có kính, ừ thì có bụi
Bụi phun tóc trắng như người già
Chưa cần rửa, phì phèo chăm điếu thuốc
Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha”.
Đường trường Sơn đâu chỉ có bụi mà ẩn chứa biết bao hiểm nguy, thách thức. Trước mọi khó khăn, nguy hiểm, các anh vẫn “cười” rồi chẳng cần lo lắng, các anh sẵn sàng chấp nhận thử thách, gian lao như thể đó là điều tất yếu. Các anh lấy cái bất biến của lòng dũng cảm, của thái độ hiên ngang để thắng lại cái vạn biến của chiến trường sinh tử gian khổ, ác liệt. Đó cũng là khí thế bao trùm của Bài thơ về tiểu đội xe không kính.
Cuộc sống có thể ngắn ngủi nhưng tình yêu tổ quốc là trường cửu. Bước vào trận chiến là họ đã sẵn sàng hi sinh thế nên những khó khăn, vất vả đối với họ chỉ là như cơn gió bụi thoảng qua, không hề khiến họ bận tâm.
Đọc những câu thơ này giúp ta hiểu được phần nào cuộc sống của người lính ngoài chiến trường những năm tháng đánh Mỹ. Đó là cuộc sống gian khổ trong bom đạn ác liệt nhưng tràn đầy tinh thần lạc quan, niêm vui sôi nổi, yêu đời Họ chẳng những thân thiện chấp nhận những thiếu thốn về vật chất mà còn biết biến những khó khăn đó thành trò đùa vui thú. Cuộc đời quân ngũ gian khổ của họ tuy vật chất thiếu thốn nhưng tinh thần lúc nào cũng dâng đầy niềm lạc quan phơi phới, đó chính là lòng hăng hái và nhiệt tình của tuổi trẻ Việt Nam.
Những khó khăn cứ trùng trùng tiếp diễn. Nhưng càng khó khăn, người lính lại càng tỏa sáng:
“Không có kính, ừ thì ướt áo
Mưa tuôn mưa xối như ngoài trời”.
Ngồi trong xe mà “mưa tuôn mưa xối” chẳng khác gì ngoài trời, cơn mưa Trường Sơn có khác gì ngàn lưỡi dao nhọn cứa vào da thịt người chiến sĩ. Vậy mà vẫn cái giọng điệu ngang tàn, bất chấp, những người lính xem thử thách của thiên nhiên là con số không, họ cứ tiếp tục công việc của mình và chẳng một chút bận tâm tới:
“Chưa cần thay, lái trăm cây số nữa
Mưa ngừng, gió lùa khô mau thôi”.
Sâu sắc hơn, bằng ống kính điện ảnh của người nghệ sĩ, nhà thơ đã ghi lại những khoảnh khắc đẹp đẽ thể hiện tình đồng chí đồng đội của những người lính lái xe không kính. Họ thuộc những tiểu đội vận tải khác nhau nhưng giờ gặp nhau trên tuyến đường này, cùng chung nhiệm vụ chiến đấu, cùng không có kính, họp lại là làm thành một tiểu đội mới:
“Những chiếc xe từ trong bom rơi
Đã về đây họp thành tiểu đội
Gặp bè bạn suốt dọc đường đi tới
Bắt tay qua cửa kính vỡ rồi”.
Chính sự khốc liệt của chiến tranh đã tạo nên tiểu đội xe không kính. Cái “bắt tay” thật đặc biệt: “bắt tay qua cửa kính vỡ rồi”. Xe không kính lại trở thành điều kiện thuận lợi để các anh thể hiện tình cảm. Cái bắt tay thể hiện niềm tin, truyền cho nhau nghị lực, làm tăng cường sức mạnh tinh thần, bù đắp tinh thần cho những thiếu thốn về vật chất mà họ phải chịu đựng.
Câu thơ có sự gặp gỡ với ý thơ của Chính Hữu trong bài thơ Đồng chí: “Thương nhau tay nắm lấy bàn tay” nhưng hồn nhiên hơn, trẻ trung hơn. Đó là quá trình trưởng thành của thơ ca, của quân đội Việt Nam trong hai cuộc kháng chiến trường kì của dân tộc.
Tình đồng chí, đồng đội còn được thể hiện một cách ấm áp, giản dị qua những giờ phút sinh hoạt của họ:
“Bếp Hoàng Cầm ta dựng giữa trời
Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy
Võng mắc chông chênh đường xe chạy
Lại đi, lại đi trời xanh thêm”.
Thật hết sức đơn giản và hồn nhiên rất lính. Chỉ cần cùng “chung bát đũa”, cùng ăn với nhau một bữa cơm thân tình giữa chiến trường là chung một gia đình. Họ đã vượt qua cái cá nhân hướng về tổ quốc. Họ xem nhau như người thân và đề cao trách nhiệm của mình.
Một tình cảm gắn kết nảy nở hết sức tự nhiên và sâu đậm giữa những con người hoàn toàn xa lạ. Tình cảm thiêng liêng ấy chỉ có thể có ở những người lính kháng chiến Việt Nam thời kì kháng chiến. Toàn dân tộc lúc này là một gia đình lớn, cùng chung công góp của, sẵn sàng chiến đấu và hi sinh vì độc lập tự do của tổ quốc.
Điệp ngữ “lại đi” và hình ảnh “trời xanh thêm” tạo âm hưởng thanh thản, nhẹ nhàng, thể hiện niềm lạc quan, tin tưởng của người lính về sự tất thắng của cuộc kháng chiến chống Mỹ. Câu thơ trong vắt như tâm hồn người chiến sĩ, như khát vọng, tình yêu họ gửi lại cho cuộc đời. Những chiếc xe không kính ấy “lại đi”, không bao giờ ngừng nghỉ.
Ở khổ thơ cuối, hình ảnh chiếc xe mới thực sự hiện lên đầy đủ. Nó không khỏi làm cho người đọc bất ngở, sững sốt:
“Không có kính, rồi xe không có đèn
Không có mui xe, thùng xe có xước”.
Không những chiếc xe không có kính mà cũng không có đèn, không có mui xe, thừng xe không còn nguyên vẹn. Kết hợp sự miêu ta, ta hình dung dường như chiếc xe chỉ còn có khung xe và động cơ mà thôi. Thế nhưng, dù chỉ còn có thế thì xe vẫn cứ chạy vì miền Nam phía trước. Vì đồng bào và chiến sĩ miền Nam, vì công cuộc đấu tranh giải phóng nước nhà, chiếc xe kiên trung vẫn cứ tiến lên phía trước:
“Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước:
Chỉ cần trong xe có một trái tim”.
Có lẽ đây là dòng thơ xúc động nhất, đáng quý nhất. Thật kì lạ, trái tim sôi nổi người chiến sĩ cũng chính là trái tim của xe. Với biện pháp hoán dụ, hình ảnh “trái tim” càng thêm rực rỡ. Đó là trái tim trung thành với Tổ Quốc, với cuộc sống cách mạng của dân tộc; đó là trái tim yêu thương đồng bào, yêu thương những người anh em miền Nam còn đang trong nước sôi lửa bỏng; đó là trái tim quyết đánh đuổi đế quốc Mỹ, thống nhất đất nước, đem lại hòa bình cho nhân dân; cũng chính là trái tim đang rạo rực, sôi sục trong lòng mỗi người chiến sĩ lái xe không kính.
Yêu thương, căm thù chính là động lực thôi thúc những người chiến sĩ lái xe khát khao giải phóng miền Nam thống nhất đất nước. Đó cũng là nguyện vọng của toàn dân tộc ta. Để ước mơ này trở thành hiện thực, chỉ có một cách duy nhất: vững vàng tay lái, cầm chắc vô lăng. Vì miền nam ruột thịt, vì tỏ quóc dù có hi sinh nào đi nữa các anh vẫn không hề run sợ. Đằng sau những ý nghĩa ấy, câu thơ còn muốn hướng con người về chân lý thời đại của chúng ta: sức mạnh quyết định chiến thắng không phải là vũ khí mà là con người giàu ý chí, anh hùng, lạc quan, quyết thắng.
Kết bài:
“Trường Sơn đông nắng tây mưa
Ai chưa đến đó như chưa rõ mình”.
Tuổi trẻ thế hệ Bác Hồ đã chọn Trường Sơn là trường đại học để rèn luyện và trưởng thành. Cuộc đời quân ngũ gian lao, nhọc nhằn đã được lấp đầy bằng tiếng cười đùa vui nhộn, bởi họ lúc nào cũng lạc quan phơi phới, hừng hực nhiệt huyết tuổi trẻ, lòng yêu nước nồng nàn, tinh thần đồng đội keo sơn gắn bó, tinh thần chiến đấu tự tin, lòng dũng cảm
Với những phẩm chất cao đẹp đó, họ đã để lại trong lòng người đọc những ấn tượng sâu sắc, những thiện cảm đến tuyệt vời! Họ mãi là những pho tượng đồng bất khuất làm nên chủ nghĩa anh hùng cách mạng của thời đại: Dám đánh Mỹ, không sợ Mỹ, quyết thắng Mỹ. Họ chính là những con người ưu tú của dân tộc đã chiến đấu và sẵn sàng hi sinh để Tổ Quốc mãi mãi “bay lên ngát xanh mùa xuân”.
C. RÚT KINH NGHIỆM
+ HS chưa thuộc thơ nên bài viết chưa đầy đủ thơ để minh họa.
+ GV hướng dẫn HS viết bài văn phân tích hình tượng nhân vật trong thơ.
+ Cần có thêm phim tư liệu để minh họa cho HS dễ hiểu hơn.
TUẦN: 10	 NGÀY VÀ LỚP DẠY: 9A3 (12/11)
TIẾT 2: LUYỆN TẬP: NGHỊ LUẬN TRONG VĂN BẢN TỰ SỰ
A. LÝ THUYẾT
Trong văn bản tự sự, để người đọc (người nghe) phải suy nghĩ về vấn đề nào đó, người viết (người kể) và nhân vật có khi nghị luận bằng cách nêu lên các ý kiến, nhận xét, cùng những lí lẽ và dẫn chứng. Nội dung đó thường được diễn đạt bằng hình thức lập luận, làm cho câu chuyện thêm phần triết lí.
B. LUYỆN TẬP
Câu 1 (trang 137 sgk Ngữ Văn 9 Tập 1): Đọc các đoạn văn.
Câu 2 (trang 137 sgk Ngữ Văn 9 Tập 1):
a. Những câu, chữ thể hiện rõ tính chất nghị luận trong hai đoạn trích:
   - Đoạn (a): Đoạn trích “Lão Hạc”
... nếu ta không cố tình hiểu họ thì ta chỉ thấy họ gàn dở, ngu ngốc, bần tiện, xấu xa, bỉ ổi... Một người đau chân có lúc nào quên được cái chân đau của mình để nghĩ đến cái gì khác đâu? Khi người ta khổ quá thì người ta chẳng còn nghĩ đến ai được nữa.
   - Đoạn (b): Lập luận trong đoạn trích Thúy Kiều báo ân báo oán.
       + Lập luận của Kiều là những lời mỉa mai đay nghiến (xưa nay đàn bà ghê gớm, cay nghiệt càng chuốc nhiều oan trái) :
       Đàn bà dễ có mấy tay,
   Đời xưa mấy mặt đời này mấy gan!
       Dễ dàng là thói hồng nhan,
   Càng cay nghiệt lắm càng oan trái nhiều.
       + Lập luận của Hoạn Thư: chuyển từ tội hại người thành tội ghen tuông thường tình, từng tha khi Kiều chạy trốn,... nhận lỗi, xin sự rộng lượng khoan hồng :
       Rằng: “Tôi chút phận đàn bà
Còn nhờ lượng bể thương bài nào chăng”
b. Nội dung và vai trò yếu tố nghị luận trong văn bản tự sự: Làm nội dung tự sự mạch lạc, khúc chiết. Tăng tính triết lí cho câu chuyện, tô đậm tính cách nhân vật.
Gợi ý đáp án:
Câu 1 (trang 139 sgk Ngữ Văn 9 Tập 1): Lời văn trong đoạn trích (a), mục I.1 là lời của ông giáo. Ông giáo đang thuyết phục chính mình rằng vợ ông không ác để “chỉ buồn chứ không nỡ giận”.
Câu 2 (trang 139 sgk Ngữ Văn 9 Tập 1): Ở đoạn trích (b), mục I.1, trình tự lập luận của Hoạn Thư:
   - Phận đàn bà, ghen tuông thường tình : xóa sự đối lập trở thành người cùng cảnh ngộ “phận đàn bà”, tôi lớn (hại người) chỉ còn là tội ghen tuông ai cũng có. Từ tội nhân trở thành nạn nhân của chế độ đa thê (chồng chung).
   - Kể công từng tha cho Kiều khi Kiều chạy trốn.
   - Cuối cùng nhận lỗi và cầu mong sự rộng lượng.
C. RÚT KINH NGHIỆM
+ GV cần hướng dẫn cho các em kĩ phần ý nghĩa của yếu tố nghị luận và đặc điểm nhận diện câu văn nghị luận trong văn bản tự sự.
+ GV cần cho HS viết trước ở nhà để trình bày trên lớp. 
TUẦN: 11	 NGÀY VÀ LỚP DẠY: 9A3 (16/11)
TIẾT 1: LUYỆN TẬP: ĐOÀN THUYỀN ĐÁNH CÁ
A. LÝ THUYẾT
+ Tiểu sử tác giả: Huy Cận.
+ Xuất xứ, hoàn cảnh sáng tác: Đoàn thuyền đánh cá: được sáng tác năm 1958 khi tác giả có chuyến đi thực tế ở vùng mỏ Quảng Ninh, được in trong tập “Trời mỗi ngày lại sáng”.
+ Giá trị nội dung và nghệ thuật: Ghi nhớ SGK.
B. LUYỆN TẬP
Bài tập 1: Cảm nhận của em về bức tranh thiên nhiên trong khổ thơ sau: 
“Mặt trời xuống biển như hòn lửa.
Sóng đã cài then đêm sập cửa.
Đoàn thuyền đánh các lại ra khơi,
Câu hát căng buồm cùng gió khơi”
(Đoàn thuyền đánh cá - Huy Cận) 
Bài tập 2: Cho câu thơ: 
“Thuyền ta lái gió với buồm trăng
 Lướt giữa mây cao với biển bằng”
Trong một bài thơ khác mà em đã học ở lớp 9 có một hình ảnh được xây dựng trên cơ sở quan sát như hình ảnh “buồm trăng”. Hãy nêu tên của bài thơ và chép chính xác đoạn thơ có câu thơ ấy. 
C. RÚT KINH NGHIỆM
+ GV cần hướng dẫn HS kĩ năng viết đoạn văn nghị luận văn học thật kĩ để HS ôn thi HKI.
+ Vốn ngôn từ của các em còn khá ít nên diễn đạt chưa tốt => GV cần chấm kĩ bài viết để các em rút kinh nghiệm.
TUẦN: 11	 NGÀY VÀ LỚP DẠY: 9A3 (19/11)
TIẾT 2: LUYỆN TẬP: TỔNG KẾT TỪ VỰNG
Câu 1 (trang 135 sgk Ngữ Văn 9 Tập 1):
Câu 2 (trang 135 sgk Ngữ Văn 9 Tập 1): Dẫn chứng về những cách phát triển của từ vựng
   - Phát triển nghĩa của từ: mũi (của người). VD: mũi thuyền, mũi tàu,...
   - Phát triển số lượng từ:
       + Tạo thêm từ mới: sách đỏ, tiền khả thi, kinh tế tri thức..
       + Mượn từ ngữ nước ngoài: a-xít, ra-đi-ô, ca-me-ra, băng cát-xét, ...
Câu 3 (trang 135 sgk Ngữ Văn 9 Tập 1): Không có ngôn ngữ nào mà từ mượn chỉ phát triển theo cách phát triển số lượng từ. Vì bất cứ từ nào cũng phải chứa đựng một nghĩa nhất định, tăng số lượng từ cũng là tăng số lượng nghĩa của từ.
II. Từ mượn
Câu 1 (trang 135 sgk Ngữ Văn 9 Tập 1): Từ mượn là từ có nguồn gốc từ ngôn ngữ tiếng nước ngoài.
Câu 2 (trang 135 sgk Ngữ Văn 9 Tập 1): Nhận định (c) đúng. Vay mượn là hiện tượng phổ biến ở tất cả các ngôn ngữ, vay mượn vừa làm giàu vốn ngôn ngữ của dân tộc, vừa để đáp ứng nhu cầu giao tiếp của người Việt.
Câu 3 (trang 135 sgk Ngữ Văn 9 Tập 1): Những từ mượn như săm, lốp, ga, xăng, phanh là những từ mượn đã được Việt hóa. Những từ như a-xít, ra-đi-ô, vi-ta-min là những từ mượn theo hình thức phiên âm.
III. Từ Hán Việt
Câu 1 (trang 136 sgk Ngữ Văn 9 Tập 1): Từ Hán Việt là từ có nguồn gốc tiếng Hán đã được người Việt sử dụng theo cách của mình.
Câu 2 (trang 136 sgk Ngữ Văn 9 Tập 1): Câu (b) là quan niệm đúng bởi vì nền văn hóa và ngôn ngữ của người Việt chịu ảnh hưởng rất lớn của ngôn ngữ Hán suốt mấy ngàn năm phong kiến, nó là bộ phận quan trọng của lớp từ mượn gốc Hán.
IV. Thuật ngữ và biệt ngữ xã hội
Câu 1 (trang 136 sgk Ngữ Văn 9 Tập 1):
   - Thuật ngữ: từ dùng trong một lĩnh vực khoa học, công nghệ nhất định.
   - Biệt ngữ xã hội: những từ ngữ chỉ dùng trong một nhóm người, một tầng lớp xã hội nhất định.
Câu 2 (trang 136 sgk Ngữ Văn 9 Tập 1): Vai trò của thuật ngữ hiện nay:
   - Đánh giá sự phát triển của các lĩnh vực khoa học, sự đi lên của một đất nước.
   - Là điều không thể thiếu khi muốn nghiên cứu và phát triển khoa học công nghệ.
Câu 3 (trang 136 sgk Ngữ Văn 9 Tập 1): Một số từ ngữ là biệt ngữ xã hội:
   - Trong nghề y: chuyên khoa ti vi, chuyên khoa moi tiền,...
   - Trong nghề giáo: cháy giáo án, chuồn giờ, cúp học, bác sĩ gây mê (thầy cô dạy quá buồn ngủ)...
   - Trong buôn bán: mấy vé, mấy xanh (đô la), cớm (công an)...
   - Lứa tuổi học sinh: trứng ngỗng (điểm 0), cọc trâu (điểm 1), phao (tài liệu chép bài),...
V. Trau dồi vốn từ: 
Câu 1 (trang 136 sgk Ngữ Văn 9 Tập 1): Các hình thức trau dồi vốn từ
   - Nắm được đầy đủ, chính xác nghĩa của từ và dùng từ một cách chính xác trong từng trường hợp cụ thể
   - Rèn luyện thêm những từ chưa biết để làm tăng vốn từ.
Câu 2 (trang 136 sgk Ngữ Văn 9 Tập 1):
   - Bách khoa toàn thư: từ điển bách khoa, ghi đầy đủ tri thức của các ngành.
   - Bảo hộ mậu dịch: chính sách bảo vệ sản xuất trong nước chống lại sự cạnh tranh của hàng hóa nước ngoài trên thị trường nước mình.
   - Dự thảo: thảo ra (soạn) để thông qua (động từ), bản thảo đưa ra (danh từ).
   - Đại sứ quán: cơ quan đại diện chính thức và toàn diện của một nhà nước ở nước ngoài do một đại sức đặc mệnh toàn quyền đứng đầu
   - Hậu duệ: con cháu người đã chết.
   - Khẩu khí: khí phách của con người toát ra qua lời nói.
   - Môi sinh: môi trường sinh sống của sự vật.
Câu 3 (trang 136 sgk Ngữ Văn 9 Tập 1): Sửa lỗi dùng từ
   a. - Sai về dùng từ béo bổ, béo bổ là từ dùng để chỉ thức ăn nuôi cơ thể.
   - Sửa lại: dùng từ béo bở thay thế, béo bở mang lại nhiều lợi nhuận.
   b. - Sai về dùng từ đạm bạc – đạm bạc là sự ăn uống đơn giản, đáp ứng nhu cầu tối thiểu của cơ thể.
   - Sửa lại: thay bằng tệ bạc - tệ bạc là hành động vô ơn không giữ trọng nghĩa tình.
   c. - Sai về cách dùng từ tấp nập – tấp nập là chỉ sự đông người qua lại.
   - Sửa lại: dùng từ tới tấp, tới tấp là liên tiếp, dồn dập.
VI. Từ tượng thanh và từ tượng hình
Câu 1 (trang 146 sgk Ngữ Văn 9 Tập 1):
   - Từ tượng thanh là mô phỏng âm thanh của tự nhiên, của con người.
   - Từ tượng hình là từ gợi tả hình ảnh, dáng vẻ, trạng thái của sự vật.
Câ

File đính kèm:

  • docxgiao_an_tang_tiet_ngu_van_lop_9_tuan_9_12.docx