Ôn tập môn Ngữ văn Lớp 9 - Tuần 22 - 25

I. Tác giả:
- Thanh Hải (1930 - 1980) tên khai sinh là Phạm bá Ngoãn, quê ở huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế.
- Ông hoạt động văn nghệ từ cuối những năm kháng chiến chống Pháp. Trong thời kỳ chống Mỹ cứu nước, Thanh Hải ở lại quê hương hoạt động và là một trong những cây bút có công xây dựng nền văn học Cách mạng ở miền Nam từ những ngày đầu.
pdf 26 trang Bình Lập 13/04/2024 380
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Ôn tập môn Ngữ văn Lớp 9 - Tuần 22 - 25", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

Tóm tắt nội dung tài liệu: Ôn tập môn Ngữ văn Lớp 9 - Tuần 22 - 25

Ôn tập môn Ngữ văn Lớp 9 - Tuần 22 - 25
Gửi các em HS khối 9 thân mến! 
Dưới đây là tổng hợp kiến thức cơ bản khối 9 từ tuần 22 đến tuần 25 mà các cô đã 
tổng hợp và gửi tới các em. Các em hãy đọc kĩ từng phần, làm bài tập trong đề 
cương và gửi Mail cho Gv dạy trực tiếp của lớp mình để thầy cô sửa bài và chấm 
điểm cho các em nhé! Hãy chăm chỉ học tập để đạt kết quả tốt nhất cho năm học cuối 
cùng ở trường cấp 2 nhé các em! 
Mail: Cô Trà : 1983huongtra@gmail.com 
Cô Hà: vietha1073@gmail.com 
Cô Hoa : Lethinhuhoa2017@gmail.com 
Cô Nhân: lickyhoangnhan@gmail.com 
Cô Thúy: suongvanang2203@gmail.com 
KIẾN THỨC CƠ BẢN BÀI MÙA XUÂN NHO NHỎ CỦA THANH HẢI 
A. Kiến thức cơ bản 
I. Tác giả: 
- Thanh Hải (1930 - 1980) tên khai sinh là Phạm bá Ngoãn, quê ở huyện Phong Điền, tỉnh 
Thừa Thiên Huế. 
- Ông hoạt động văn nghệ từ cuối những năm kháng chiến chống Pháp. Trong thời kỳ 
chống Mỹ cứu nước, Thanh Hải ở lại quê hương hoạt động và là một trong những cây bút 
có công xây dựng nền văn học Cách mạng ở miền Nam từ những ngày đầu. 
II. Tác phẩm: 
1. Hoàn cảnh sáng tác: Bài thơ được viết vào tháng 11/1980, không bao lâu trước khi nhà 
thơ qua đời, thể hiện niềm yêu mến cuộc sống đất nước thiết tha và ước nguyện của tác 
giả. 
2. Khái quát giá trị nội dung và nghệ thuật: 
- Nội dung: bài thơ là tiếng lòng tha thiết yêu mến và gắn bó với đất nước, với cuộc đời, 
thể hiện ước nguyện chân thành của nhà thơ được cống hiến cho đất nước, góp một “mùa 
xuân nho nhỏ” của mình vào mùa xuân lớn của dân tộc. 
- Nghệ thuật: bài thơ theo thể năm tiếng, có nhạc điệu trong sáng, tha thiết, gần gũi với dân 
ca, nhiều hình ảnh đẹp, giản dị gợi cảm, so sánh ẩn dụ và sáng tạo. 
: 3. Mạch cảm xúc và bố cục 
* Mạch cảm xúc: được khơi nguồn, nảy nở từ sức sống, vẻ đẹp của mùa xuân thiên nhiên, 
mở rộng ra với mùa xuân đất nước, cách mạng. Cảm xúc lắng đọng dần vào suy tư và ước 
nguyện: nhà thơ muốn nhập vào bản hoà ca vĩ đại của cuộc đời bằng một nốt trầm xao 
xuyến của riêng mình, góp vào mùa xuân chung lớn lao “một mùa xuân nho nhỏ”. Bài thơ 
khép lại với những cảm xúc thiết tha, tự hào về quê hương, đất nước qua điệu dân ca xứ 
Huế. 
* Bố cục: Gồm 4 phần: 
- Khổ 1: Cảm xúc trước mùa xuân thiên nhiên, đất trời 
- Khổ 2 + 3: Cảm xúc về mùa xuân của đất nước 
- Khổ 4 + 5: Suy nghĩ và ước nguyện của tác giả trước mùa xuân đất nước. 
- Khổ cuối: Lời ngợi ca quê hương, đất nước qua điệu dân ca xứ Huế. 
4. Nhan đề bài thơ: 
- “Mùa xuân nho nhỏ” là một sáng tác độc đáo, một phát hiện mới mẻ của nhà thơ. 
- Hình ảnh “Mùa xuân nho nhỏ” là biểu tượng cho những gì tinh tuý, đẹp đẽ nhất của sự 
sống và cuộc đời mỗi con người. 
- Thể hiện quan điểm về sự thống nhất giữa cái riêng với cái chung, giữa cá nhân và cộng 
đồng. 
- Thể hiện nguyện ước của nhà thơ muốn làm một mùa xuân, nghĩa là sống đẹp, sống với 
tất cả sức sống tươi trẻ của mình nhưng rất khiêm nhường là một mùa xuân nhỏ góp vào 
mùa xuân lớn của thiên nhiên, đất nước, của cuộc đời chung và khát vọng sống chân 
thành, cao đẹp của nhà thơ. Đó cũng chính là chủ đề của bài thơ mà nhà thơ muốn gửi 
gắm. 
B. Phân tích bài thơ: 
1. Cảm xúc của nhà thơ trước mùa xuân của thiên nhiên (6 câu đầu): 
- Bức tranh mùa xuân thiên nhiên trong 6 câu thơ đầu được vẽ bằng vài nét phác hoạ 
nhưng rất đặc sắc. 
- Không gian cao rộng của bầu trời, rộng dài của dòng sông, màu sắc hài hoà của bông hoa 
tím biếc và dòng sông xanh - đặc trưng của xứ Huế. 
- Rộn rã, tươi vui với âm thanh tiếng chim chiền chiện hót vang trời, tiếng chim trong anhs 
áng xuân lan toả khắp bầu trời như đọng thành “từng giọt long lanh rơi”. 
- Cảm xúc của tác giả trước mùa xuân đất trời thể hiện qua cái nhìn trìu mến với cảnh vật, 
trong những lời bộc lộ trực tiếp như lời trò chuyện với thiên nhiên “ơi, hót chi mà”. 
Đặc biệt cảm xúc của nhà thơ được thể hiện trong một động tác trữ tình đón trân trọng vừa 
tha thiết trìu mến với mùa xuân: đưa tay hứng lấy từng giọt long lanh của tiếng chim chiền 
chiện. 
“Từng giọt long lanh rơi 
Tôi đưa tay tôi hứng”. 
- Có thể hiểu câu thơ theo nhiều cách khác nhau. Trước hết, “giọt long lanh” là những giọt 
mưa mùa xuân, giọt sương mùa xuân, trong sáng, rơi xuống từng nhành cây, kẽ lá như 
những hạt ngọc. 
- ở đây, giọt long lanh cũng có thể được hiểu theo nghĩa ẩn dụng chuyển đổi cảm giác. 
Tiếng chim từ chỗ là âm thanh (cảm nhận bằng thính giác) chuyển thành từng giọt (hình 
và khối, cảm nhận bằng thị giác), từng giọt ấy lại long lanh ánh sáng và màu sắc, có thể 
cảm nhận bằng xúc giác “Tôi đưa tay tôi hứng”. Dù hiểu theo cách nào thì hai câu thơ vẫn 
thể hiện cảm xúc say sưa, ngây ngất của tác giả trước cảnh đất trời xứ Huế vào xuân, thể 
hiện mong muốn hoá vào thiên nhiên đất trời trong tâm tưởng giữa mùa đông giá lạnh 
khiến ta vô cùng khâm phục. 
II. Cảm xúc của nhà thơ trước mùa xuân của đất nước (10 câu tiếp) 
- Hình ảnh lộc xuân theo người ra tràn theo người ra đồng làm đẹp ý thơ với cuộc sống lao 
động và chiến đấu, xây dựng và bảo vệ, 2 nhiệm vụ không thể tách rời. Họ đã đem mùa 
xuân đến mọi nơi trên đất nước. 
“Mùa xuân người cầm súng 
Lộc giắt đầy quanh lưng 
Mùa xuân người ra đồng 
Lộc trải dài nương mạ” 
+ “Mùa xuân người cầm súng. Lộc giắt đầy trên lưng”: liên tưởng đến những người chiến 
sỹ ra trận mà trên vai, trên lưng họ có cành lá nguỵ trang. Những cành lá ấy mang lộc biếc, 
chồi non, mang theo mùa xuân của thiên nhiên, cây cỏ. Từ “lộc” còn làm cho người ta liên 
tưởng đến hình ảnh người lính khi ra trận, mang theo sức sống của cả dân tộc. Chính màu 
xanh sức sống đó đã tiếp cho người lính có thêm sức mạnh, ý chí để họ vươn xa ra phía 
trước tiêu diệt quân thù. 
+ “Mùa xuân người ra đồng. Lộc trải dài nương mạ”: nói về những người lao động, những 
người ươm mầm cho sự sống, ươm những hạt mầm non trên những cánh đồng quê hương, 
từ “lộc” cho ta nghĩ tới những cánh đồng trải dài mênh mông với những chồi non mới nhú 
lên xanh mướt từ những hạt thóc giống đầu mùa xuân. Từ “lộc” còn mang sức sống, sức 
mạnh của con người. Có thể nói, chính con người đã tạo nên sức sống của mùa xuân thiên 
nhiên, đất nước. 
+ “Tất cả như hối hả. Tất cả như xôn xao". Nhà thơ Thanh Hải đã cảm nhận mùa xuân đất 
nước bằng hai từ láy gợi cảm “hối hả” là vội vã, khẩn trương, liên tục không dừng lại. 
“Xôn xao” khiến ta nghĩ tới những âm thanh liên tiếp vọng về, hoà lẫn với nhau xao động. 
Đây chính là tâm trạng tác giả, là cái náo nức trong tâm hồn. Tiếng lòng của tác giả như 
reo vui náo nức trước tinh thần lao động khẩn trương của con người. Mùa xuân đất nước 
được làm nên từ cái hối hả ấy. Sức sống của đất nước, của dân tộc, cũng được tạo nên từ 
sự hối hả, náo nức của người cầm súng, người ra đồng. Như vậy, hình ảnh mùa xuân đất 
nước đã đươcn mở rộng dần. Đầu tiên, nó chỉ gói gọn trên đôi vai, tấm lưng của người ra 
trận, đã được mở rộng thành một cánh đồng bao la. 
- Nhà thơ tin tưởng, tự hào về tương lai tươi sáng của đất nước cho dù trước mắt còn nhiều 
vất vả, khó khăn. Và đất nước được hình dung bằng một hình ảnh so sánh thật đẹp mang 
nhiều ý nghĩa : 
"Đất nước bốn nghìn năm 
Vất vả và gian lao 
Đất nước như vì sao 
Cứ đi lên phía trước”. 
Sao là một nguồn sáng lấp lánh, là vẻ đẹp vĩnh hằng vượt qua mọi không gian và thời 
gian. Sao cũng là hình ảnh rạng ngời trên lá cờ Tổ quốc. Qua đó, tác giả Thanh Hải bộc lộ 
niềm tự hào về một đất nước Việt Nam anh hùng và giàu đẹp. Đất nước mãi trường tồn, 
vĩnh cửu cùng vũ trụ, không bao giờ mất đi và không một thế lực nào ngăn cản được, nhất 
định đất nước cũng sẽ toả sáng như những vì sao trong hành trình đi đến tương lai rực rỡ, 
đi đến bến bờ hạnh phúc. Đó là chí quyết tâm, niềm tin sắt đá, niềm tự hào lạc quan của cả 
dân tộc. ở câu thơ thứ hai, phụ từ “cứ” kết hợp với động từ “đi lên” thể hiện quyết tâm cao 
độ, hiên ngang tiến lên phía trước, vượt qua mọi khó khăn, cảm xúc của nhà thơ là cảm 
xúc lạc quan, tin tưởng, ngợi ca sức sống của quê hương đất nước, của dân tộc khi mùa 
xuân về. 
III. ước nguyện của nhà thơ (8 câu tiếp) 
- Muốn làm những việc hữu ích dâng hiến cho đời bày tỏ qua những hình ảnh tự nhiên, 
giản dị và đẹp. Đẹp và tự nhiên và giàu ý nghĩa vì nhà thơ đã lấy cái đẹp tinh tuý của thiên 
nhiên để diễn tả vẻ đẹp của tâm hồn: 
“Ta làm con chim hót 
Ta làm một nhành hoa 
Ta nhập vào hoà ca 
Một nốt trầm xao xuyến". 
- Làm "con chim hót" giữa muôn ngàn tiếng chim vô tư cống hiến tiếng hót vui, làm "một 
cành hoa" giữa vườn hoa xuân rực rỡ vô tư cống hiến hương sắc cho đời, làm "một nốt 
trầm" giữa bản hoà tấu muôn điệu, làm "một mùa xuân nho nhỏ" góp vào mùa xuân lớn 
của đất nước, của cuộc đời chung. ở phần đầu bài thơ, tác giả đã phác hoạ hình ảnh mùa 
xuân bằng các chi tiết bông hoa và tiếng chim hót. Cấu tứ lặp đi lặp lại như vậy tạo ra sự 
đối ứng chặt chẽ. Hình ảnh chọn lọc ấy trở lại đã mang một ý nghĩa mới: niềm mong muốn 
được sống có ích, cống hiến cho đời là một lẽ tự nhiên. 
- Điệp từ "ta" như một lời khẳng định. Nó không chỉ là lời tâm niệm thiết tha, chân thành 
của nhà thơ mà nó còn đề cập đến một vấn đề lớn là khát vọng chung của nhiều người. 
"Một mùa xuân nho nhỏ 
Lặng lẽ dâng cho đời 
Dù là tuổi hai mươi 
Dù là khi tóc bạc” 
- ước nguyện hoá thân đso vô cùng cháy bỏng, nhưng được tác giả âm thầm “lặng lẽ dâng 
cho đời”. “Nho nhỏ”, “lặng lẽ” là cách nói khiêm tốn, chân thành mà giản dị, là cách sống 
cao đẹp. Tác giả muốn mỗi người là một mùa xuân nhỏ hoà vào cuộc sống, là ước nguyện 
sống có ích, được cống hiến cho đời như Tố Hữu đã viết trong “Một khúc ca xuân”. 
“Nếu là con chim, chiếc lá 
Thì con chim phải hót, chiếc lá phải xanh 
Lẽ nào vay mà không có trả 
Sống là cho, đâu chỉ nhận riêng mình” 
- “Mùa xuân nho nhỏ” là một ẩn dụ đầy sáng tạo, cũng là cách thể hiện thiết tha, cảm 
động. Nó đã khắc sâu ý tưởng: “Mỗi cuộc đời đã hoá núi sông ta” (Nguyễn Khoa Điềm). 
Đó không phải mong muốn trong một lúc mà là cả một cuộc đời “Dù là tuổi hai mươi. Dù 
là khi tóc bạc”. 
- Điệp từ “Dù là” khiến âm điệu câu thơ tha thiết, sâu lắng, ý thơ được nhấn mạnh làm cho 
người đọc không chỉ xúc động trước một giọng thơ ấm áp, mà còn xúc động trước lời tâm 
sự thiết tha của một con người đã từng trải qua 2 cuộc kháng chiến, đã cống hiến trọn cuộc 
đời và sự nghiệp cho cách mạng vẫn tha thiết được sống đẹp, sống có ích với tất cả sức 
sống tươi trẻ của mình cho cuộc đời chung. 
- Bài thơ được viết một tháng trước khi nhà thơ trở về với cát bụi nhưng không gợi chút 
băn khoăn về bệnh tật, những suy nghĩ riêng tư cho bản thân mà chỉ “lặng lẽ cháy bỏng 
một khát khao được dâng hiến”. 
IV. Lời ngợi ca quê hương, đất nước qua điệu dân ca xứ Huế (Khổ cuối) 
Như một nhịp láy lại của khúc dân ca dịu dàng, đằm thắm tăng giá trị biểu hiện của các 
khổ thơ trên đem lại thi vị Huế trìu mến tha thiết. 
“Mùa xuân - ta xin hát 
Khúc Nam ai, Nam bình 
Nước non ngàn dặm mình 
Nước non ngàn dặm tình 
Nhịp phác tiền đất Huế". 
- Bài thơ khép lại trong âm điệu khúc Nam ai, Nam bình xứ Huế. Đoạn thơ kết thúc như 
một khúc hát ca ngợi mùa xuân, để lại dư vị sâu lắng. Nhà thơ muốn hát lên điệu Nam ai, 
Nam bình, điệu dân ca tha thiết xứ Huế để đón mừng mùa xuân. Câu ca nghe như một lời 
từ biệt để hoà vào vĩnh viễn. Nhưng đây không phải là lời ca buồn thủa trước “nhịp phác 
tiền đất Huế” nghe giòn giã, vang xa. - “Nước non ngàn dặm mình. Nước non ngàn dặm 
tình” còn ngân nga mãi mãi. Phải yêu đời lắm, phải lạc quan lắm mới có thể hát lên trong 
hoàn cảnh nhà thơ lúc đó (đang ốm nặng và sắp qua đời). Điều đó làm ta càng yêu quý 
tiếng hát và tấm lòng nhà thơ. Như vậy, xuyên suốt bài thơ không chỉ là hình tượng mùa 
xuân. Từ tiếng chim chiền chiện tượng trưng cho khúc hát của đất trời đến làm một nốt 
nhạc trầm nhập vào bản hoà ca đất nước, và đến đây là khúc hát tạo ấn tượng một bài ca 
không dứt. Một bài ca yêu cuộc sống. Bài thơ được nhạc sỹ Trần Hoàn phổ nhạc thành bài 
hát và trở thành một khúc ca xuân quen thuộc, xúc động, còn mãi với đời. 
V. Nghệ thuật đặc sắc: 
- Thể thơ 5 chữ gần với điệu dân ca, âm hưởng trong sáng, nhẹ nhàng, tha thiết, điệu thơ 
như điệu của tâm hồn, cách gieo vần liền tạo sự liền mạch của dòng cảm xúc. 
- Hình ảnh tự nhiên, giản dị, những hình ảnh giàu ý nghĩa biểu tượng, đặc biệt một số hình 
ảnh cành hoa, con chim, mùa xuân được lặp đi lặp lại và nâng cao, gây ấn tượng đậm đà. 
- Cấu tứ bài thơ chặt chẽ, chủ yếu dựa trên sự phát triển của hình tượng mùa xuân: từ mùa 
xuân đất trời - > đất nước - > con người. 
- Giọng điệu bài thơ phù hợp với cảm xúc của tác giả: ở đoạn đầu vui, say sưa với vẻ đẹp 
của mùa xuân thiên nhiên, rồi phấn chấn, hối hả trước khí thế lao động của đất nước. Và 
cuối cùng là trầm lắng, hơi trang nghiêm mà thiết tha bộc bạch, tâm niệm. 
VI. Trong phần đầu bài thơ, tác giả dùng đại từ “tôi” sang phần sau lại dùng đại từ 
“ta”. Em hiểu như thế nào về sự chuyển đổi đại từ nhân xưng ấy của chủ thể trữ tình. 
- Tôi và ta đều là đại từ nhân xưng ở ngôi thứ nhất. 
- Giữa hai phần của bài thơ có sự chuyển đổi đại từ nhân xưng của chủ thể trữ tình từ “tôi” 
sang “ta”. Điều này không phải hoàn toàn là ngẫu nhiên mà đã được tác giả sử dụng như 
một dụng ý nghệ thuật thích hợp với sự chuyển biến của cảm xúc và tư tưởng trong bài 
thơ. Chữ “tôi” trong câu “tôi đưa tay tôi hứng” ở khổ thơ đầu vừa thể hiện một cái “tôi” cụ 
thể rất riêng của nhà thơ, vừa thể hiện được sự nâng niu, trân trọng với vẻ đẹp và sự sống 
của mùa xuân. Nếu thay bằng chữ “ta” thì hoàn toàn không thích hợp với nội dung cảm 
xúc ấy mà chỉ vẽ ra một tư thế có vẻ phô trương. 
- Còn trong phần sau, khi bày tỏ điều tâm niệm tha thiết như một khát vọng được dâng 
hiến giá trị tinh tuý của đời mình cho đời chung thì đại từ “ta” lại tạo được sắc thái quan 
trọng, thiêng liêng của một lời nguyện ước. 
- Hơn nữa, điều tâm nguyện ấy không chỉ của riêng nhà thơ, mà của biết bao thế hệ người 
Việt Nam đang sống và cống hiến cho sự nghiệp chung, cái “tôi” của tác giả đã thay cho 
nhiều cái “tôi” khác, nó nhất thiết phải hoá thân thành cái “ta”. Nhưng “ta” mà không hề 
chung chung vô hình, mà vẫn nhận ra được một giọng nhỏ nhẹ, khiêm nhường, đằm thắm 
của cái “tôi” Thanh Hải. 
* Một số câu hỏi xoay quanh tác phẩm: 
Câu 1 : Chép chính xác đoạn thơ thứ 3 trong bài "Mùa xuân nho nhỏ” của Thanh Hải. 
a. Giải thích ý nghĩa cụm từ: “Mùa xuân nho nhỏ” trong đoạn thơ. 
b. Phân tích ước nguyện của nhà thơ được thể hiện trong đoạn thơ từ: “Ta làm con chim 
hót dù là khi tóc bạc” bằng một đoạn văn. 
Gợi ý: 
Mùa xuân nho nhỏ là sáng tác độc đáo trong ý tưởng thơ và ngôn ngữ thơ của nhà thơ 
Thanh hải. Đây là hình ảnh ẩn dụ chỉ mùa xuân riêng trong lòng nhà thơ trước mùa xuân 
của dân tộc. Nó hoà cùng vào mùa xuân của đất nước. Từ láy “nho nhỏ” vừa chỉ ra cái 
mùa xuân riêng của nhà thơ vừa gợi lên cái vẻ xinh xinh, đáng yêu của nó. Nhà thơ tự 
nguyện làm một mùa xuân, ông muốn sống đẹp, sống với tất cả sức sống tươi trẻ của mình 
nhưng lại rất khiêm nhường, coi đấy chỉ là một mùa xuân nho nhỏ góp vào mùa xuân lớn 
của đất nước, của cuộc đời chung. 
b. Phân tích đoạn thơ: 
- Câu đầu tiên của đoạn văn phải nêu được ý chính của hai khổ thơ: Những suy ngẫm và 
tâm niệm của mình trước mùa xuân của đất nước. 
- Điều tâm niệm của nhà thơ: là khát vọng được hoà nhập vào cuộc sống của đất nước, 
cống hiến phần tốt đẹp - dù nhỏ bé của mình cho cuộc đời chung, cho đất nước. 
+ Hình ảnh thơ tự nhiên giàu sức gợi tả, dùng những hình ảnh của thiên nhiên để nói lên 
ước nguyện của mình: làm một tiếng chim hót trong rộn rã tiếng chim ca, một cành hoa để 
góp vào vườn hoa muôn hương sắc, một nốt trầm âm thầm, lặng lẽ để nhập vào khúc ca 
tiếng hát của nhân dân 
+ Những hình ảnh ấy được nhắc tới ở khổ thơ đầu, lặp lại ở khổ thơ này trong giọng thơ 
nhè nhẹ, êm ái, ngọt ngào mang ý nghĩa mới: niềm mong muốn được sống có ích, cống 
hiến cho đời là một lẽ tự nhiên. 
- Đánh giá: Điều tâm niệm ấy thật cao đẹp, chân thành, là sự phát triển tự nhiên trong 
mạch cảm xúc của bài thơ. 
- Điệp từ “ta” như một lời khẳng định. Và cái “ta” vốn chỉ để nói về mình bỗng như trở 
thành cái “ta” chung của nhiều người, khát vọng của nhiều người. 
- Ước nguyện đó được đẩy lên cao thành một lẽ sống cao đẹp: Mỗi người nên cống hiến 
cho cuộc đời chung một nét riêng, cái phần tinh tuý nhất của mình dù là nhỏ bé, một cách 
lặng lẽ, khiêm tốn, không kể gì đến tuổi tác. 
+ Điệp ngữ “dù là” như một lời tự nhủ với lương tâm - > sự kiên trì, thử thách với thời 
gian, tuổi già, bệnh tật để mãi là một mùa xuân nho nhỏ trong mùa xuân rộng lớn của quê 
hương, đất nước. 
+ Giọng thơ nhỏ nhẹ, chân tình nhưng mang sức khái quát lớn. 
=> Người đọc đồng cảm với một tấm lòng, một lẽ sống cao đẹp. 
Câu 2: Trong phần đầu, tác giả dùng đại từ “Tôi”, sang phần sau, tác giả lại dùng đại 
từ “Ta”. Em hiểu như thế nào về sự chuyển đổi đại từ nhân xưng ấy của chủ thể trữ 
tình? 
- Sự chuyển đổi đại từ nhân xưng đó không phải là sự ngẫu nhiên vô tình mà là dụng ý 
nghệ thuật tạo nên hiệu quả sâu sắc. 
- Đó là sự chuyển từ cái “tôi” cá nhân nhỏ bé hoà vào cái “ta” chung của cộng đồng, nhân 
dân, đất nước. Trong cái “Ta” chung vẫn có cái “tôi” riêng, hạnh phúc là sự hoà hợp và 
cống hiến. Thể hiện niềm tự hào, niềm vui chung của dân tộc trong thời đại mới. 
- Sự chuyển đổi diễn ra rất tự nhiên, hợp lý theo mạch cảm xúc. 
Gợi ý: 
Giữa hai phần của bài thơ có sự chuyển đổi đại từ nhân xưng của chủ thể trữ tình từ “tôi” 
sang “ta”. Điều này hoàn toàn không phải là ngẫu nhiên mà đã được tác giả sử dụng như 
một dụng ý nghệ thuật thích hợp với sự chuyển biến của cảm xúc và tư tưởng trong bài 
thơ. Chữ “tôi” trong câu “tôi đưa tay tôi hứng” ở khổ thơ đầu vừa biểu hiện một cái tôi cụ 
thể rất riêng của nhà thơ, vừa thể hiện được sự nâng niu, trân trọng với vẻ đẹp và sự sống 
của mùa xuân. Nếu thay bằng chữ “ta” thì hoàn toàn không thích hợp với nội dung cảm 
xúc ấy mà chỉ vẽ ra một tư thế có vẻ phô trương. Còn trong phần sau, khi bày tỏ điều tâm 
niệm tha thiết như một khát vọng được dâng hiến những giá trị tinh tuý của đời mình cho 
cuộc đời chung thì đại từ “Ta” lại tạo được sắc thái trang trọng, thiêng liêng của một lời 
ước nguyện. Hơn nữa điều tâm nguyện ấy không chỉ là của riêng nhà thơ, cái tôi của tác 
giả đã nói thay cho nhiều cái tôi khác, nó nhất thiết phải hoá thân thành cái ta. Nhưng “ta” 
mà không hề chung chung vô tình và vẫn nhận ra được một giọng riêng nhỏ nhẹ khiêm 
nhường, đằm thắm của cái “Tôi” Thanh Hải: muốn được làm một nốt trầm xao xuyến 
trong bản hoà ca, đem mùa xuân nho nhỏ đời mình dâng cho đời một cách lặng lẽ chứ 
không phải phô trương, ồn ào. 
Câu 3: Trong hai câu thơ: “Từng giọt long lanh rơi. Tôi đưa tay tôi hứng”, có người 
hiểu “giọt long lanh” là giọt mưa xuân, có người lại cho là giọt âm thanh tiếng chim ở 
câu thơ trước đó. Nêu cách hiểu của em và phân tích hai câu thơ đó? 
- Nếu hiểu là “giọt mưa xuân” cũng có chỗ hợp lý: nét quen thuộc của khung cảnh mùa 
xuân và dễ gợi cảm xúc xôn xao trong lòng người. Nhưng có chỗ chưa thật hợp lý: mưa 
xuân thường nhẹ và ấm (Bữa ấy mưa xuân phơi phới bay - Nguyễn Bính), chữ không 
thể tạo thành giọt. 
- Cách hiểu thứ hai hợp lý hơn: 
+ Liền mạch với câu thơ trước. 
+ NT ẩn dụ chuyển đổi cảm giác: Nhà thơ đưa tay hứng từng giọt âm thanh tiếng chim 
(chuyển đổi cảm giác). Tiếng chim từ chỗ là âm thanh, chuyển thành từng giọt, từng giọt 
ấy lại long lanh ánh sáng và màu sắc, có thể cảm nhận bằng xúc giác. - > Diễn tả niềm say 
sưa, ngây ngất của nhà thơ trước vẻ đẹp của thiên nhiên, trời đất lúc vào xuân. 
Hiểu từ “giọt” trong hai câu thơ trên là giọt mưa (hay giọt sương) cũng có chỗ hợp lý. 
Mưa xuân cũng là một nét quen thuộc của khung cảnh mùa xuân và dễ gợi cảm xúc xôn 
xao trong lòng người. Nguyễn Bính viết “Bữa ấy mưa xuân phơi phới bay” (Mưa xuân), vì 
mưa xuân thường nhẹ và ấm không giá lạnh như trong tiết đông. Nhưng cũng có chỗ chưa 
thật hợp lý, vì mưa xuân thường là mưa bụi, mưa nhỏ, khó có thể tạo thành từng giọt long 
lanh rơi. Cách hiểu “giọt” là giọt âm thanh tiếng chim chiền chiện xuất phát từ chỗ cho 
rằng giữa câu thơ này với hai dòng thơ trước nó là liền mạch. Hiểu như vậy thì câu thơ, 
không dừng lại ở tả thực mà là biểu hiện một sự chuyển đổi cảm giác: Tiếng hót lánh lót, 
vang vọng, trong trẻo của con chim chiền chiện được cảm nhận như một dòng âm thanh 
tuôn chảy và trong ánh sáng tươi rạng rỡ của trời xuân, giọt âm thanh cũng long lanh và 
nhà thơ nâng niu, trân trọng đưa tay đón lấy từng giọt. (Tuy nhiên cách hiểu sau không 
quen thuộc với bút pháp vốn bình dị của thơ Thanh Hải). 
Câu 4: Giải nghĩa từ “lộc” trong đoạn thơ: 
“Mùa xuân người cầm súng 
Lộc giắt đầy quanh lưng 
Mùa xuân người ra đồng 
Lộc trải dài nương mạ ằ 
- Lộc: chồi non, lá non. Nhưng “lộc” còn có nghĩa là mùa xuân, là sức sống, là thành quả 
hạnh phúc. 
Viết đoạn văn phân tích đoạn thơ trên. 
Từ mùa xuân của thiên nhiên đất trời, nhà thơ chuyền sang cảm nhận về mùa xuân của đất 
nước. Đất nước và con người cũng mang vẻ đẹp của sức sống vô tận, rộn ràng bước vào 
một mùa xuân mới. Lộc xuân theo người cầm súng, lộc xuân trải dài nương mạ. Hình ảnh 
“người cầm súng” và “người ra đồng” biểu trưng cho hai nhiệm vụ chiến đấu và lao động 
dựng xây đất nước. Âm hưởng thơ hối hả, khẩn trương với nhiều điệp từ, điệp ngữ láy lại 
ở đầu câu. Câu thơ vừa là thực, nhiều nghĩa. “Lộc” lá chồi non, lá non, nhưng lộc còn có 
nghĩa là mùa xuân, là sức sống, là thành quả hạnh phúc. Người cầm súng giắt lộc để nguỵ 
trang ra trận như mang theo sức xuân vào trận đánh, người ra đồng như gieo mùa xuân 
trên từng nương mạ. Những con người lao động, chiến đấu ấy đã mang cả mùa xuân ra 
trận địa của mình để gặt hái mùa xuân về cho đất nước. 
Câu 5: Viết đoạn văn quy nạp từ 9 - > 15 câu với chủ đề: Bài thơ “Mùa xuân nho 
nhỏ” đã vẽ nên một bức tranh thiên nhiên tươi đẹp và tràn đầy sức sống. 
Gợi ý: 
- Viết đoạn văn quy nạp tức là câu chủ đề phải đưa xuống cuối đoạn văn (chú ý có từ liên 
kết: Quả thật, có thể nói). 
- Để làm rõ câu chủ đề trên, cần phân tích khổ thơ đầu tiên của bài thơ: Mùa xuân của 
thiên nhiên, đất trời. 
+ Vài nét phác hoạ của tác giả về mùa xuân: dòng sông xanh, bông hoa tím biếc, tiếng 
chim chiền chiện hót vang trời. 
+ Không gian cao rộng (với dòng sông, với mặt đất, bầu trời bao la), cả sắc màu tươi thắm 
của mùa xuân (sông xanh, hoa tím biếc - màu tím đặc trưng của xứ Huế), cả âm thanh 
vang vọng, tươi vui của chim chiền chiện hót vang trời. 
+ Cảm xúc say sưa, ngây ngất của nhà thơ: được diễn tả ở chi tiết rất tạo hình: “Từng giọt 
long lanh rơi. Tôi đưa tay tôi hứng”. 
Gợi ý: Bức tranh thiên nhiên mở đầu bằng không gian tháng đãng, yên ả, thơ mộng. Đó là 
không gian của một dòng sông xanh. Dòng sông ấy gợi nhắc đến sông Hương thơ mộng 
của Xứ Huế và không gian của mùa xuân không ngừng được mở rộng với tiếng hót vang 
trời của con chim chiền chiện. Chiền chiện vốn là loài chim báo tin xuân, hình ảnh của nó 
xuất hiện trong khổ thơ khiến người đọc có cảm giác không gian như được trải đầy một 
sắc xuân. Thanh Hải lựa chọn màu sắc trẻ trung, tươi tắn và căng tràn sức sống cho bức 
tranh mùa xuân của mình. Đó là màu xanh của dòng sông hoà lẫn màu xanh của bầu trời. 
Là một màu tím biếc đến nao lòng của xứ Huế. Nhưng bức tranh này không chỉ có hình 
ảnh, màu sắc mà còn có cả âm thanh. Chỉ có điều ở đây tiếng chim hót như trở nên cụ thể, 
hữu hình, thành hình khối long lanh náo nức để có thể đưa tay ra mà hứng, mà nâng niu. 
Quả thật, Thanh Hải với lòng yêu thiên nhiên say đắm đã thể hiện mọi bức tranh thiên 
nhiên tươi đẹp, tràn đầy sức sống. 
Câu 6: Em hiểu tên bài thơ “mùa xuân nho nhỏ” gắn bó như thế nào với quan niệm 
sống của tác giả? 
Gợi ý: Tiêu đề bài thơ gắn bó chặt chẽ với quan niệm sống của tác giả. Bài thơ có tên 
“mùa xuân nho nhỏ”, đó là mùa xuân khiêm tốn, nhỏ bé, hữu hạn của mỗi con người trước 
mùa xuân lớn lao hùng vĩ của đất nước và thiên nhiên. Tác giả quan niệm rằng mỗi con 
người dù trẻ hay già, suốt cả cuộc đời đều phải cống hiến phần nhỏ bé của mình cho xã 
hội, mà đó là phần cống hiến tự nguyện khiêm nhường. Thanh Hải ước ao mình là “một 
mùa xuân nho nhỏ”, một tiếng chim, một cành hoa, một nốt nhạc trầm xao xuyến đẻ nhập 
vào bản hoà ca chung của dân tộc. Đó là ý thức tự nguyện cống hiến phần nhỏ bé của mình 
cho xã hội, cho đất nước 
KIẾN THỨC CƠ BẢN VĂN BẢN VIẾNG LĂNG BÁC CỦA VIỄN PHƯƠNG CẦN 
GHI NHỚ 
A. Tìm hiểu chung 
I. Tác giả : 
- Viễn Phương tên khai sinh là Phan Thanh Viễn, sinh năm 1928, quê ở tỉnh An Giang. 
- Trong kháng chiến chống Pháp và Mỹ, ông hoạt động ở Nam Bộ, là một trong những cây 
bút có mặt sớm nhất của lực lượng văn nghệ giải phóng ở miền Nam thời chống Mỹ cứu 
nước. 
II. Tác phẩm 
1. Hoàn cảnh sáng tác: Năm 1976, sau khi cuộc kháng chiến chống Mỹ kết thúc, đất nước 
thống nhất, lăng chủ tịch Hồ Chí Minh cũng vừa khánh thành, tác giả ra thăm miền Bắc, 
vào lăng viếng Bác Hồ. Bài thơ "Viếng lăng Bác" được sáng tác trong dịp đó, và in trong 
tập "Như mây mùa xuân” (1978). 
2. Khái quát giá trị nội dung và nghệ thuật 
* Nội dung: Bài thơ thể hiện lòng thành kính và niềm xúc động sâu sắc của nhà thơ và 
mọi người đối với Bác Hồ khi vào lăng viếng Bác. 
* Nghệ thuật: Bài thơ có giọng điệu trang trọng và tha thiết, nhiều hình ảnh ẩn dụ đẹp và 
gợi cảm, ngôn ngữ bình dị mà cô đúc. 
3. Cảm hứng bao trùm và mạch vận động tâm trạng của nhà thơ - Bố cục 
* Cảm hứng bao trùm: là niềm xúc động thiêng liêng thành kính, lòng biết ơn và tự hào 
pha lẫn nỗi xót đau khi tác giả từ miền Nam ra viếng lăng Bác. Cảm hứng ấy đã chi phối 
giọng điệu của bài thơ. Đó là giọng thành kính, trang nghiêm phù hợp với không khí 
thiêng liêng ở lăng, nơi vị lãnh tụ yên nghỉ. Cùng với giọng suy tư, trầm lắng là nỗi đau 
xót lẫn niềm tự hào. 
* Mạch cảm xúc: đi theo trình tự của một cuộc vào lăng viếng Bác, từ khi đứng trước 
lăng đến khi bước vào Lăng và trở ra về. Mở đầu là cảm xúc về cảnh bên ngoài lăng, tập 
trung ở ấn tượng đậm nét về hàng tre bên lăng gợi hình ảnh quê hương đất nước. Tiếp đó 
là cảm xúc trước hình ảnh dòng người như bất tận ngày ngày vào lăng viếng Bác. Xúc cảm 
và suy ngẫm về Bác được gợi lên từ những hình ảnh giàu ý nghĩa biểu tượng: mặt trời, 
vầng trăng, trời xanh. Cuối cùng là niềm mong ước thiết tha khi sắp phải trở về quê hương 
miền Nam, muốn tấm lòng mình vẫn được mãi mãi ở lại bên lăng Bác. Mạch cảm xúc như 
trên đã tạp nên một bố cục khá đơn giản, tự nhiên và hợp lý của bài thơ. 
* Bố cục: 4 phần 
- Khổ 1: cảm xúc của tác giả trước không gian, cảnh vật bên ngoài lăng. 
- Khổ 2: Cảm xúc trước đoàn người vào lăng viếng Bác. 
- Khổ 3: Cảm xúc khi vào lăng, nhìn thấy di hài Bác. 
- Khổ 4: Những tình cảm, cảm xúc trước lúc ra về. 
B. Phân tích bài thơ 
I. Cảm nhận về bài thơ 
a. Mở bài: 
- “Viếng lăng Bác” của Viễn Phương là một trong những bài thơ hay viết về Bác sau ngày 
Bác Hồ “đi xa”. 
- Bài thơ được viết trong không khí xúc động của nhân dân ta lúc công trình lăng Bác 
được hoàn thành sau khi miền Nam được giải phóng, đất nước được thống nhất, đồng bào 
miền Nam có thể thực hiện mong ước được viếng lăng Bác. 
- Bài thơ diễn tả niềm kính yêu, sự xót thương và lòng biết ơn vô hạn của nhà thơ đối với 
lãnh tụ bằng một ngôn ngữ tinh tế, giàu cảm xúc sâu lắng. 
b. Thân bài: 
1. Cảm xúc trước lăng Bác: 
* Tình cảm chân thành và giản dị của đồng bào miền Nam muốn nhắn gửi, nhờ Viễn 
Phương nói họ cùng bác. 
- Câu thơ “Con ở miền Nam ra thăm long Bác” chỉ gỏn gọn như một lời thông báo nhưng 
lại gợi ra tâm trạng xúc động của một người từ chiến trường miền Nam sau bao nhiêu năm 
mong mỏi bây giờ mới được ra viếng Bác. 
- Cách dùng đại từ xưng hô “con” rất gần gũi, thân thiết, ấm áp tình thân thương, diễn tả 
tâm trạng của người con ra thăm cha sau bao nhiêu năm mong mỏi bây giờ mới được ra 
viếng Bác. 
- Cách nói giảm, nói tránh: từ “thăm” thay cho từ “viếng”, giảm nhẹ nỗi đau thương mất 
mát - Bác Hồ còn sống mãi trong tâm tưởng của mọi người. 
- Hình ảnh hàng tre vừa mang tính chất tượng trưng, giàu ý nghĩa liên tưởng sâu sắc: Hàng 
tre là hình ảnh hết sức thân thuộc của làng quê, đất nước Việt Nam, đã thành một biểu 
tượng của dân tộc. Cây tre mang biểu tượng của tâm hồn thanh cao, sức sống bền bỉ, kiên 
cường của dân tộc “xanh xanh Việt Nam Bão táp mưa sa đứng thẳng hàng”. 
- “Ôi!” là từ cảm thán, biểu thị niềm xúc động tự hào trước hình ảnh hàng tre. 
* Sự tôn kính của tác giả khi đứng trước lăng người: 
- Khổ thơ thứ hai được tạo nên từ cặp câu với những hình ảnh thực và ẩn dụ sóng đôi là 
hình ảnh thực: một mặt trời thiên nhiên rực rỡ vĩnh hằng ngày ngày đi qua trên lăng. Câu 
dưới là hình ảnh ẩn dụ - hình ảnh Bác Hồ. Màu sắc “rất đỏ” làm cho câu thơ có hình ảnh 
đẹp gây ấn tượng sâu xa hơn, nói lên tư tưởng cách mạng, lòng yêu nước nồng nàn của 
Bác. 
- > Thông qua hình ảnh ẩn dụ trên, tác giả vừa nói lên sự vĩ đại của Bác Hồ (như mặt trời), 
vừa thể hiện được sự tôn kính của nhân dân, của nhà thơ đối với Bác. 
- Hình ảnh “dòng người đi trong thương nhớ” là hình ảnh thực: ngày ngày dòng người đi 
trong nỗi xúc động, bồi hồi, trong lòng tiếc thương kính cẩn, trong lòng nặng trĩu nỗi nhớ 
thương. Nhịp thơ chậm, giọng thơ trầm như bước chân dòng người vào lăng viếng Bác. 
- Dòng người vào lăng viếng Bác kết thành những tràng hoa không chỉ là hình ảnh tả thực 
so sánh những dòng người xếp thành hàng dài vào lăng Bác trong như những tràng hoa vô 
tận, mà còn là một ẩn dụ đẹp, sáng tạo của nhà thơ: cuộc đời của họ đã nở hoa dưới ánh 
sáng của Bác. Những bông hoa tươi thắm đó đang đến dâng lên Người những gì tốt đẹp 
nhất. 
- Dâng “bảy mươi chín mùa xuân”: hình ảnh hoán dụ mang ý nghĩa tượng trưng: con 
người bảy mươi chín mùa xuân ấy đã sống một cuộc đời đẹp như những mùa xuân và đã 
làm lên những mùa xuân cho đất nước, cho con người. 
2. Cảm xúc trong lăng 
Niềm biết ơn thành kính đã chuyển sang niềm xúc động nghẹn ngào khi tác giả nhìn thấy

File đính kèm:

  • pdfon_tap_mon_ngu_van_lop_9_tuan_22_25.pdf