Sáng kiến kinh nghiệm Dạy truyện trung đại Việt Nam theo phương pháp đọc - hiểu ở chương trình Ngữ Văn 9
- Hoàn cảnh nảy sinh sáng kiến
Ngày nay, khi đất nước ngày càng phát triển thì ngành giáo dục nói chung và môn Ngữ Văn nói riêng lại có một vai trò và nhiệm vụ mới. Vai trò và nhiệm vụ mới này đã được LuậtGiáo dục, điều 24.2 ghi rõ: "Phương pháp giáo dục phổ thông phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinh; phù hợp với đặc điểm của từng lớp học, môn học; bồi dưỡng phương pháp tự học, rèn luyện kĩ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn; tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho học sinh". Như vậy, chúng ta có thể thấy rằng tiêu chí quan trọng hàng đầu của giáo dục hiện nay là đào tạo học sinh trở thành những con người năng động, chủ động, biết vận dụng và sáng tạo những gì đã học được trên ghế nhà trường vào trong đời sống, góp phần phát triển xã hội. Để làm được điều này không phải là chuyện dễ dàng bởi một thực trạng đáng buồn hiện nay là họcsinh ngày càng trở nên lạnh nhạt với môn Văn. Có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên nhưng nguyên nhân lớn nhất là do phương pháp giảng dạy của giáo viên chưa thật sự cuốn hút. Do vậy, chúng ta cấp thiết phải thực hiện cuộc cách mạng về phương pháp dạy học nói chung, phương pháp dạy học Văn nói riêng.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Dạy truyện trung đại Việt Nam theo phương pháp đọc - hiểu ở chương trình Ngữ Văn 9
THÔNG TIN CHUNG VỀ SÁNG KIẾN 1. Tên sáng kiến: Dạy truyện trung đại Việt Nam theo phương pháp đọc- hiểu ở chương trình Ngữ Văn 9 2. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến: Giải pháp tác nghiệp 3. Tác giả: Họ và tên: Nguyễn Thị Thúy Hồng Nữ Ngày tháng/năm sinh: 16 tháng 12 năm 1973 Trình độ chuyên môn: Đại học Ngữ Văn Chức vụ: Hiệu trưởng Đơn vị công tác: Trường THCS Hồng Đức – Ninh Giang - Hải Dương Điện thoại: 0979.431.822 4. Đồng tác giả (Không) 5. Chủ đầu tư tạo ra sáng kiến:Trường THCS Hồng Đức, huyện Ninh Giang, tỉnh Hải Dương. Điện thoại: 03203.760.779 6. Đơn vị áp dụng sáng kiến lần đầu (nếu có): Trường THCS Hồng Dụ huyện Ninh Giang, tỉnh Hải Dương. Điện thoại: 03203.767.341 7. Các điều kiện cần thiết để áp dụng sáng kiến: - Giáo viên say mê, có lòng yêu nghề; Có tinh thần học hỏi, nâng cao trình độ chuyên môn. - Học sinh yêu thích môn học, có ý thức chuẩn bị bài. - Có đủ các phương tiện dạy học cần thiết để phục vụ cho giảng dạy 8. Thời gian áp dụng sáng kiến lần đầu: Năm học 2013-2014 TÁC GIẢ Nguyễn Thị Thúy Hồng XÁC NHẬN CỦA ĐƠN VỊ ÁP DỤNG SÁNG KIẾN TÓM TẮT SÁNG KIẾN Hoàn cảnh nảy sinh sáng kiến Ngày nay, khi đất nước ngày càng phát triển thì ngành giáo dục nói chung và môn Ngữ Văn nói riêng lại có một vai trò và nhiệm vụ mới. Vai trò và nhiệm vụ mới này đã được Luật Giáo dục, điều 24.2 ghi rõ: "Phương pháp giáo dục phổ thông phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinh; phù hợp với đặc điểm của từng lớp học, môn học; bồi dưỡng phương pháp tự học, rèn luyện kĩ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn; tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho học sinh". Như vậy, chúng ta có thể thấy rằng tiêu chí quan trọng hàng đầu của giáo dục hiện nay là đào tạo học sinh trở thành những con người năng động, chủ động, biết vận dụng và sáng tạo những gì đã học được trên ghế nhà trường vào trong đời sống, góp phần phát triển xã hội. Để làm được điều này không phải là chuyện dễ dàng bởi một thực trạng đáng buồn hiện nay là học sinh ngày càng trở nên lạnh nhạt với môn Văn. Có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên nhưng nguyên nhân lớn nhất là do phương pháp giảng dạy của giáo viên chưa thật sự cuốn hút. Do vậy, chúng ta cấp thiết phải thực hiện cuộc cách mạng về phương pháp dạy học nói chung, phương pháp dạy học Văn nói riêng. Điều kiện, thời gian, đối tượng áp dụng sáng kiến. - Điều kiện áp dụng: Giáo viên say mê, có lòng yêu nghề; có tinh thần học hỏi, nâng cao trình độ chuyên môn. - Thời gian áp dụng: Năm học 2013-2014. - Đối tượng áp dụng: Học sinh lớp 9 Nội dung sáng kiến Tìm ra một phương pháp dạy học hữu hiệu là mong muốn của bất kì giáo viên nào đứng trên bục giảng. Đó là con đường đầy gian nan và cực nhọc. Trong muôn vàn phương pháp ấy, phương pháp đọc hiểu được các nhà nghiên cứu giáo dục đánh giá cao, là “khâu đột phá của giảng dạy văn”. Bởi phương pháp đọc- hiểu ngoài hình thành kĩ năng đọc- hiểu cho học sinh còn giúp học sinh phát huy tính tích cực, năng động, sáng tạo của mình. Không những vậy phương pháp đọc- hiểu phát huy tính tự học ở học sinh. Và để tổ chức hoạt động đọc- hiểu khi giảng dạy phần truyện trung đại, giáo viên cần chú ý những đặc trưng của thể loại. Và trong chương trình lớp 9, phần văn học trung đại chủ yếu là truyện - truyện thơ. Nên khi giảng dạy theo phương pháp đọc hiểu theo thể loại này, giáo viên cần thực hiện tốt các giải pháp sau: Đọc và tìm hiểu các yếu tố ngoài văn bản; Tóm tắt tác phẩm; Nhận ra chủ đề của văn bản; Phân tích nhân vật và các tình tiết quan trọng trong tác phẩm để mở ra nội dung tác phẩm; Tìm hiểu hình thức nghệ thuật trong tác phẩm. Ngoài ra để bài giảng được sâu sắc hơn, học sinh có những kiến thức, kĩ năng toàn diện hơn thì trong quá trình giảng dạy giáo viên cần vận dụng nguyên tắc tích hợp, liên môn trong giảng dạy để đạt hiệu quả cao. Khẳng định giá trị, kết quả đạt được của sáng kiến Với việc sử dụng phương pháp đọc- hiểu để dạy các văn bản trung đại, tôi dễ dàng nhận thấy: giờ học sôi nổi, các em mạnh dạn trình bày ý kiến của mình. Học sinh có sự chuẩn bị tốt bài ở nhà nên khi đến lớp các em bắt nhịp rất nhanh vào nội dung bài học. Hơn nữa với việc dạy đọc- hiểu theo thể loại giúp các em biết phân tích tác phẩm theo đặc trưng của thể loại đó và có thể đọc- hiểu được các văn bản cùng loại khác. Và còn củng cố thêm kiến thức tập làm văn cho các em ( Văn tự sự ở lớp 9) 5. Đề xuất kiến nghị để thực hiện áp dụng hoặc mở rộng sáng kiến. Về phía nhà trường: Cần đầu tư các phương tiện dạy học hiện đại: máy chiếu, máy quay, các trang thiết bị dạy học khác. Về phía Phòng giáo dục: Tổ chức chuyên đề dạy học, bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ. MÔ TẢ SÁNG KIẾN 1.Hoàn cảnh nảy sinh sáng kiến Ngày nay, khi đất nước ngày càng phát triển thì ngành giáo dục nói chung và môn Ngữ Văn nói riêng lại có một vai trò và nhiệm vụ mới. Vai trò và nhiệm vụ mới này đã được.Luật Giáo dục, điều 24.2 cũng ghi rõ: "Phương pháp giáo dục phổ thông phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinh; phù hợp với đặc điểm của từng lớp học, môn học; bồi dưỡng phương pháp tự học, rèn luyện kĩ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn; tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho học sinh". Như vậy, chúng ta có thể thấy rằng tiêu chí quan trọng hàng đầu của giáo dục hiện nay là đào tạo học sinh trở thành những con người năng động, chủ động, biết vận vận dụng và sáng tạo những gì đã học được trên ghế nhà trường vào trong đời sống, góp phần phát triển xã hội. Tiêu chí này đã làm thay đổi không nhỏ đến hệ thống giáo dục nước ta trong những năm gần đây. Đó là cải cách chương trình đặc biệt là thay đổi phương pháp giảng dạy. Bộ môn Ngữ Văn cũng chuyển mình để phù hợp với mục tiêu chung đó. Theo đó, các văn bản được đưa vào nhà trường thường hướng đến việc bồi dưỡng và nâng cao năng lực văn học cho học sinh, đặc biệt là chú trọng đến việc đọc- hiểu của các em. Để làm được điều này không phải là chuyện dễ dàng bởi một thực trạng đáng buồn hiện nay là học sinh ngày càng trở nên lạnh nhạt với môn Văn. Có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên nhưng nguyên nhân lớn nhất là do phương pháp giảng dạy của giáo viên chưa thật sự cuốn hút. Qua những điều trên, một lần nữa ta có thể khẳng định rằng phương pháp giảng dạy có một vai trò rất quan trọng trong quá trình dạy học, nó quyết định sự thành bại của một tiết học. Do vậy, chúng ta cấp thiết phải thực hiện cuộc cách mạng về phương pháp dạy học nói chung, phương pháp dạy học văn nói riêng. 2. Thực trạng dạy và học các tác phẩm văn học trung đại . 2.1. Thực trạng giảng dạy các tác phẩm văn học trung đại. Văn học trung đại được đưa vào nhà trường một mặt giúp các em hiểu được tiến trình phát triển của nền văn học nước nhà qua các thời kì nhưng mong muốn hơn hết là giúp các em thấy được giá trị, cảm nhận và yêu thích những hòn ngọc ngàn đời vẫn sáng này. Đó là mong muốn của bất kì giáo viên nào. Thế nhưng trên thực tế giảng dạy, nhiều giáo viên vẫn gặp phải một số khó khăn khiến cho điều ấy không thể trở thành hiện thực được hoặc chỉ trở thành hiện thực một cách nửa vời. 2.1.1.Về mặt phương pháp: Đổi mới phương pháp đã được đặt ra từ nhiều năm nay nhưng trong dạy học văn, đặc biệt là trong dạy học văn trung đại giáo viên chủ yếu dùng phương pháp thuyết giảng là chính. Trong giờ học, giáo viên dành hầu hết thời gian của mình để nói, để truyền tải nội dung kiến thức còn học sinh chỉ ngồi nghe và ghi chép lại, các em ít có cơ hội được cùng tham gia hay đối thoại cùng với giáo viên về tác phẩm. Chính vì thế nên giờ học rất nhàm chán, đơn điệu, chưa tạo được sự tập trung, hứng thú của học sinh. Những năm gần đây, giáo viên có nhiều điều kiện để làm quen và ứng dụng phương pháp mới, phương pháp hiện đại trong đó có phương pháp đọc- hiểu. Tuy nhiên, qua khảo sát tại một số trường, tôi nhận thấy vẫn còn một số giáo viên lúng túng khi áp dụng các phương pháp này do giáo viên chưa thực sự hiểu đúng bản chất của việc đổi mới phương pháp dạy học. Cho nên, việc thực hiện phương pháp mới vẫn chỉ mang tính chất “thay tên đổi họ” còn quá trình dạy, giáo viên vẫn trở về với phương pháp cũ trước đây. Cũng có trường hợp, giáo viên cũng cố gắng tạo nhiều thay đổi trong lớp học như: tạo không khí sôi nổi trong lớp học bằng những câu hỏi nêu vấn đề để học sinh thảo luận nhóm nhưng việc ấy cũng chưa đạt kết quả khả quan bởi câu hỏi nhiều khi chưa đúng trọng tâm, hoặc quá khó, hoặc quá dễ chưa phù hợp với tầm nhận thức của các em; hơn thế nữa, giáo viên đôi khi cũng chưa chuẩn bị tâm lí với những tình huống đi chệch với suy nghĩ của mình. Do vậy, lớp học có “ồn ào, náo nhiệt” hơn trước nhưng “tính tích cực, chủ động, sáng tạo” của học sinh vẫn bị quên lãng. Thay đổi phương pháp mới không có nghĩa là chúng ta bác bỏ hoàn toàn phương pháp cũ mà thay vào đó là lựa chọn, tìm ra những ưu điểm để từ đó nâng cao chất lượng dạy- học văn. Qua thực trạng trên, tôi nhận thấy về mặt phương pháp cũng như ứng dụng phương pháp vẫn còn nhiều bất cập, chưa thực sự phù hợp với mục tiêu giáo dục hiện nay, cho nên, việc tìm ra một phương pháp mới là một việc làm cấp thiết. 2.1.2. Về mặt nội dung giảng dạy: Tác phẩm văn học là một chỉnh thể trong đó các yếu tố có liên quan chặt chẽ với nhau. Tuy nhiên, theo cách dạy trước đây, giáo viên lại ít chú ý đến đặc điểm này. Họ thường chỉ chú trọng phân tích nội dung mà ít quan tâm đến hình thức nghệ thuật của văn bản. Điều này vô tình đã đánh mất một phần nào giá trị tác phẩm. Không chỉ vậy, do các tác phẩm văn học trung đại hầu hết đều sáng tác bằng thứ ngôn ngữ cổ (chữ Hán và chữ Nôm). Các em chưa từng đươc làm quen với loại chữ này trước đó, do vậy, nó là một rào cản mà các em không dễ gì vượt qua. Để giúp các em hiểu đúng nội dung và đảm bảo đúng thời lượng tiết học, con đường nhanh nhất mà nhiều giáo viên hay lựa chọn là cảm thụ thay học sinh. Cũng có trường hợp, nhiều giáo viên lại không am hiểu nhiều về nghĩa của các từ trong văn bản nên cách duy nhất để “vượt qua” các văn bản này là tự suy diễn theo cảm tính hoặc xem phần dịch nghĩa và dịch thơ là kim chỉ nam để giảng dạy. Một nhược điểm nữa cũng thường thấy trong cách dạy là giáo viên nhiều khi chỉ quan tâm đến tác phẩm mà bỏ qua những kiến thức về lịch sử, lí luận văn học có liên quan đến tác phẩm. Đây là những kiến thức rất cần thiết, là chìa khoá để học sinh giải mã tác phẩm một cách đúng đắn và sâu sắc. Bên cạnh kiến thức lịch sử, lí luận văn học cũng là vấn đề cần quan tâm. Lí luận văn học sẽ giúp học sinh nắm được một số khái niệm thường dùng trong văn học: nhân vật, đề tài, chủ đề, không gian, thời gian, ngôn từ nghệ thuật, tác phẩm trữ tình, tác phẩm tự sự, hình thức, nội dung của tác phẩm Đây là những tri thức văn học mà bất kì học sinh học văn nào cũng cần phải có. Từ những tri thức này, học sinh sẽ biết cách phân tích, cảm thụ tác phẩm. Ví dụ khi học tác phẩm thuộc thể loại tự sự, sau khi đã hiểu về thể loại này rồi, học sinh sẽ phân tích dựa theo đặc điểm của thể loại này nghĩa là đi tìm hiểu đề tài, chủ đề, cốt truyện, nhân vật và các sự kiện, hành động diễn ra trong tác phẩm để nhận ra giá trị tư tưởng mà nhà văn muốn gửi gắm.Như vậy, việc không quan tâm đến những kiến thức lịch sử và lí luận văn học sẽ là một thiếu sót rất lớn trong quá trình dạy Văn. Ngoài ra, giáo viên vẫn chưa giảng dạy văn bản theo loại thể. Trên thực tế, sau nhiều lần dự giờ của một số đồng nghiệp, tôi nhận thấy trong quá trình giảng dạy, giáo viên cho học sinh tìm hiểu thể loại và phương thức biểu đạt của văn bản nhưng khi đi vào đọc- hiểu, giáo viên lại chỉ chú trọng đến nội dung mà quên mất kết hợp với thể loại của bài. Văn bản “Chị em Thúy Kiều”, giáo viên xác định văn bản này thuộc loại truyện Nôm, phương thức biểu đạt chính là miêu tả nhưng khi phân tích giáo viên chỉ chú trọng đến cái Tài và Sắc có ảnh hưởng như thế nào đến cuộc đời của hai chị em. Với cách giảng dạy này, không những làm cho bài giảng trở nên rời rạc mà học sinh cũng không khắc sâu được đặc trưng của thể loại đó. Từ thực trạng giảng dạy nêu trên, chúng ta thấy việc giảng dạy văn học trung đại vẫn còn nhiều điểm bất cập, hoặc quá thiên về nội tại tác phẩm mà quên mất những yếu tố bên ngoài tác động đến tác phẩm, hoặc chỉ chú trọng đến nội dung, tách rời nội dung khỏi hình thức. Điều này đã vô tình vừa làm giảm đi giá trị của tác phẩm, vừa ảnh hưởng đến quá trình nhận thức của học sinh.Như vậy, việc giảng dạy văn học trung đại cho tới hiện nay vẫn chưa thực sự đem lại hiệu quả và như thế có nghĩa là cần phải có một cách giảng dạy mới hơn thay thế cho cách giảng dạy cũ. 2.2. Thực trạng của việc học các tác phẩm văn học trung đại. Trong giáo dục, học sinh thường có tình trạng học lệch môn, nghĩa là các em chuộng các môn tự nhiên hơn các môn xã hội. Cho nên việc dành thời gian cho các môn xã hội nói chung và môn Ngữ Văn nói riêng hầu như rất ít. Điều này cũng ảnh hưởng không nhỏ đến khả năng lĩnh hội, tiếp nhận của học sinh. Thực tế hiện nay, một trong những nguyên nhân khiến giáo viên đau đầu nhất là nhiều em học sinh cho đến nay vẫn chưa có thói quen chuẩn bị bài trước ở nhà hoặc chỉ soạn bài một cách chiếu lệ, cho qua để khỏi bị khiển trách. Cho nên, khi đến lớp, những gì giáo viên truyền đạt đều trở nên khó hiểu, đặc biệt là các văn bản chữ Hán, hay những vản bản có sử dụng nhiều điển cố, điển tích như Truyện Kiều, Hoàng Lê thống nhất chí. Với thời lượng 45 phút mà giáo viên còn cho học sinh đọc hết các chú thích và giải thích thì không thể thực hiện được trên lớp mà công việc này học sinh phải làm ở nhà. Nếu học sinh không soạn thì chắc chắn những gì giáo viên giảng đều không thể nắm bắt được. Một thực trạng cũng phổ biến trong nhiều năm qua là không ít học sinh lười đọc tác phẩm. Không đọc ở nhà đã đành, ngay cả ngồi trên lớp các em cũng không chịu “ngó ngàng”, “để ý” đến văn bản mà mình đang học. Nhiều em không biết bạn mình đọc đến đâu, học bài trang bao nhiêu. Qua dự giờ khối 9, bài “Hoàng Lê nhất thống chí”, tôi thấy chỉ khoảng 20%- 30% là học sinh chú ý vào bài đọc, các em còn lại không tập trung hoặc làm việc riêng trong giờ học. Việc đọc của học sinh cũng rơi vào tình trạng đáng báo động. Học sinh đọc không đúng nhịp điệu câu văn, thậm chí còn đọc sai từ. Với cách học như trên, dù cho giáo viên có tài giỏi đến mấy, tác phẩm có hay đến mấy thì cũng không thể nào đi vào lòng của các em được. Do vậy, thay đổi cách học cũng là một trong những mục tiêu của giảng dạy Văn hiện nay. Như vậy, xuất phát từ thực tiễn nêu trên, tôi đã chọn đề tài “ Dạy truyện trung đại Việt Nam theo phương pháp đọc- hiểu ở chương trình Ngữ Văn 9” Qua đây, tôi mong có thể đóng góp một phần nhỏ bé vào con đường tìm kiếm phương pháp mới cho văn học trung đại Việt Nam ở bậc THCS nói chung và văn học trung đại trong chương trình Ngữ Văn lớp 9 nói riêng. Tuy nhiên, một con én không thể làm nên mùa xuân và đây cũng là một đề tài rộng và khó nên trong quá trình nghiên cứu, đề tài sẽ có nhiều thiếu sót. Do vậy, chúng tôi rất mong nhận được ý kiến đóng góp của quí thầy cô để đề tài có thể được ứng dụng vào trong thực tiễn giảng dạy tốt hơn. 3. Các giải pháp, biện pháp thực hiện. 3.1. Khái niệm phương pháp đọc- hiểu. Có rất nhiều cách giải thích về khái niệm phương pháp đọc- hiểu. Trần Đình Sử cũng chia sẻ quan điểm của mình qua bài “Đọc hiểu văn bản- Khâu đột phá trong nội dung và phương pháp dạy Văn hiện nay”. Ông nhấn mạnh: Dạy văn là dạy cho học sinh năng lực đọc, kĩ năng đọc để giúp các em có thể đọc hiểu bất cứ văn bản nào cùng loại. Từ đọc hiểu văn mà trực tiếp tiếp nhận các giá trị văn học, trực tiếp thể nghiệm các tư tưởng và cảm xúc được truyền đạt bằng nghệ thuật ngôn từ, hình thành cách đọc riêng có cá tính. Đó là con đường duy nhất để bồi dưỡng cho học sinh năng lực của chủ thể tiếp nhận thẩm mĩ.”[68] Phương pháp đọc- hiểu ra đời đã chú trọng đến việc đọc của học sinh, rèn luyện cho các em cách đọc văn bản để từ đó có thể hiểu được đầy đủ nội dung, ý nghĩa mà tác giả gửi gắm vào trong tác phẩm. Không chỉ dừng lại ở đó, theo phương pháp này học sinh còn có khả năng đọc- hiểu các văn bản khác có cùng thể loại với văn bản đã được học trong nhà trường. 3.2. Phương pháp đọc- hiểu thay đổi cơ chế dạy học hiện nay. 3.2.1. Phương pháp đọc- hiểu hình thành kĩ năng đọc- hiểu cho học sinh. Một trong những hoạt động cơ bản trong cơ cấu dạy và học văn hiện nay là giúp học sinh “biết đọc” tác phẩm, biết tái hiện hình tượng, nội dung chứa đựng trong tác phẩm, để trên cơ sở đó giúp các em biết phân tích cái hay, cái đẹp của nó. Để đáp ứng được yêu cầu trên, trong suốt quá trình dạy, giáo viên luôn chú trọng, hướng dẫn học sinh những kĩ năng đọc- hiểu. Đọc là một thao tác trực cảm ngôn từ. Ở đây, do tính phi vật thể của ngôn ngữ văn học- việc đọc phải bằng hồi ức, liên tưởng, tưởng tượng làm rõ dần các lớp nghĩa của văn bản. Hơn nữa, ngôn từ trong tác phẩm thường không tồn tại ở dạng đơn nhất, ngẫu nhiên- mà tồn tại trong kết cấu nghệ thuật- vì vậy nó có giai điệu tiết tấu hàm chứa giọng điệu của nhà văn. Đọc đúng giai điệu, tiết tấu sẽ xác định được giọng điệu đó, xác định được tâm thế và cảm hứng chiếm lĩnh bề sâu của hình tượng tác phẩm. Mặt khác, đọc không chỉ là việc làm đầu tiên, đọc còn xuyên thấm trong toàn bộ quá trình phân tích tìm hiểu giá trị nghệ thuật và nội dung tác phẩm, xuyên thấm trong so sánh khái quát và cả việc làm cuối cùng của giờ học: đọc ngay cả khi làm “luyện tập” để tái hiện một cách sâu sắc nhất, trọn vẹn nhất hình tượng tác phẩm đã cảm nhận được từ các việc làm trên. Như vậy, việc đọc có vai trò rất quan trọng trong giờ dạy học văn và giáo viên sẽ trang bị cho học sinh những cách đọc để việc đọc- hiểu văn bản của các em hiệu quả hơn. Bản thân việc đọc đã có nhiểu mức độ. Mức độ thứ nhất là đọc thông, đọc thuộc, không vấp váp về ngữ âm, nghĩa từ, biết ngừng đọc đúng chỗ là một trình độ. Mức độ thứ hai là đọc kĩ, đọc sâu, biết được cách hành văn, sắp xếp ý, dụng ý trong dùng từ, ngắt câu, chơi chữ. Mức thứ ba là đọc hiểu thông điệp mà văn bản gửi đến cho người đọc là một mức độ rất cao. Nhưng đọc văn là để cảm, để sống, để thưởng thức, để dùng, để tự phát triển bản thân, cho nên đọc sáng tạo và đọc sử dụng là khâu cao nhất. Người đọc phải tìm được cái nghĩa mà người đọc trước chưa thấy, thậm chí hiểu cái nghĩa ngoài tầm kiểm soát của tác giả. Đó là đọc sáng tạo. Như vậy, theo phương pháp mới này, học sinh sẽ được rèn luyện các kĩ năng đọc từ thấp đến cao. Để việc đọc đem lại hiệu quả cao, khi đọc giáo viên hướng dẫn các em đọc kết hợp với thể loại của tác phẩm đó nghĩa là đối với một bài thơ trữ tình, học sinh sẽ có cách đọc khác với cách đọc của một tác phẩm tự sự hay nghị luận. Phương pháp đọc- hiểu không chỉ dừng lại ở việc rèn luyện kĩ năng đọc cho học sinh mà thông qua quá trình đọc như vậy còn giúp các em biết cách giải mã tác phẩm. Do vậy, trong quá trình dạy học, thông qua hệ thống các câu hỏi, giáo viên sẽ từng bước giúp học sinh cảm thụ tác phẩm bằng cách khai thác từ hình thức nghệ thuật đến nội dung, bám sát vào câu chữ để từ đó khái quát lên giá trị của tác phẩm. Nói tóm lại, phương pháp đọc- hiểu sẽ hình thành cho học sinh những kĩ năng đọc- hiểu để từ đó học sinh tự mình biết đọc, hiểu, nắm bắt được nội dung và nghệ thuật của một tác phẩm. Đây là một trong những điểm mới mẻ quan trọng mà phương pháp đọc- hiểu đã làm được. Nó phù hợp với yêu cầu chung mà Bộ giáo dục đã đề ra khi giảng dạy môn Văn nói chung và văn học trung đại nói riêng. 3.2.2.Phương pháp đọc- hiểu phát huy tính tích cực, năng động, sáng tạo ở học sinh. Sáng tạo là đặc tính chung của con người bởi vì đứng trước một vấn đề mới lạ nào đó, bao giờ con người cũng có nhu cầu tìm hiểu, khám phá và chiếm lĩnh nó. Trong văn chương, sự sáng tạo rất cần thiết, nó sẽ giúp nhà văn tìm và định hướng cho mình một hướng đi mới, chưa có ai khám phá. Do vậy mà mỗi nhà văn đều có một phong cách, một dấu ấn riêng. Sự sáng tạo không chỉ cần với nhà văn mà còn cần cả với người đọc. Đặc điểm này khiến cho tác phẩm có nội dung vô hạn. Vì vậy, đọc tác phẩm văn học cũng là một việc làm cần tính sáng tạo. Trong một tiết dạy Văn, giáo viên khơi gợi sự sáng tạo, chủ động, tích cực của học sinh bằng rất nhiều cách. Bằng những phương pháp khơi gợi hướng dẫn và để học sinh tiếp xúc trực tiếp, được khám phá và được thưởng thức “chất văn”, nghĩa là được thể nghiệm, nếm trải và hiểu sâu thêm những việc đời, việc người, việc mình chân thực là đã phát huy chủ thể sáng tạo tích cực trong dạy văn. Đồng thời, luôn luôn tạo không khí cởi mở để các em có thể thoải mái trao đổi, tranh luận với nhau về một vấn đề trong tác phẩm. Dưới sự hướng dẫn của giáo viên, học sinh sẽ đi vào những cách hiểu của riêng mình và tích cực chủ động bộc lộ những cách hiểu đó. Từ đó học sinh sẽ rút ra được chân lý và tính tích cực chủ động sáng tạo của từng học sinh được phát huy một cách tối đa.Về điều này, nhà thơ Tố Hữu của chúng ta đã ví rằng: “Đừng tưởng học sinh không biết gì cả. Có những điều các em cảm thụ khác thầy. Phải khác vì các em là thế hệ mới” Như vậy, phát huy được tính năng động, tích cực, sáng tạo ở học sinh sẽ giúp học sinh hiểu được tác phẩm một cách sâu sắc hơn, đồng thời, giúp các em cởi mở, tự tin hơn đối với những cảm nhận của riêng mình về tác phẩm. 3.2.3.Phương pháp đọc- hiểu phát huy tính tự học ở học sinh. Tự học là một khái niệm không còn mới mẻ và xa lạ đối với mỗi người. Theo từ điển tiếng Việt, tự học là quá trình tự thân vận động của mỗi người để tích lũy tri thức, kĩ năng và kinh nghiệm lịch sử- xã hội mà nhân loại tích lũy được trong quá trình phát triển, biến nó thành kinh nghiệm kĩ năng riêng cho cá nhân mỗi người. Tự học trong nhà trường khác như thế nào với tự học ở ngoài cuộc sống? Tự học ở ngoài cuộc sống có phạm vi rất rộng, người ta có thể thu nhận nhiều mảng kiến thức khác nhau tùy thuộc vào sự đòi hỏi của cuộc sống, của nghề nghiệp, của bản thân. Còn tự học trong nhà trường chỉ qui lại ở phạm vi nhỏ hẹp tức là những kiến thức, những bài học đã được chọn sẵn và đó cũng không phải là con đường tự mày mò một mình mà luôn có sự hướng dẫn, giúp đỡ của thầy cô. Như vậy, con đường tự học đối với học sinh đơn giản hơn rất nhiều. Tự học ở đây được hiểu như là những vấn đề được đặt ra trong bài học, học sinh dưới sự dẫn dắt của thầy mà tự lí giải vấn đề đó. Đây cũng là điểm mới mẻ mà hầu hết các phương pháp hiện nay áp dụng. Tự học trong nhà trường còn được thể hiện ở chỗ: các em không chỉ dừng lại ở nội dung bài học trên lớp mà bên cạnh đó thầy cô sẽ đưa thêm cho các em những tình huống có liên quan đến bài học để các em có thể nắm chắc và hiểu sâu hơn kiến thức đã thu lượm được. Hoặc cũng có khi các em thể hiện sự tự học của mình bằng cách tự mình đọc- hiểu những tác phẩm ở ngoài chương trình. Quan tâm đến vấn đề tự học của học sinh là một việc làm cần thiết bởi những kiến thức trong SGK chỉ là những kiến thức cơ bản và có giới hạn, trong khi đó, lượng thông tin từ bên ngoài cuộc sống lại vô cùng phong phú và đa dạng. Do đó, học sinh cần có phương pháp tự học mới có thể nắm bắt hết được những lượng thông tin ấy. Từ thực trạng của các phương pháp dạy học cũng như việc nêu lên những ưu điểm của phương pháp đọc- hiểu để một lần nữa khẳng định rằng, phương pháp đọc- hiểu là một phương pháp hữu hiệu có thể đem lại sự thay đổi đáng kể trong việc dạy văn nói chung và văn học trung đại nói riêng trong giai đoạn hiện nay vì mục tiêu hướng đến của nó là học sinh. Mọi hoạt động dạy và học của phương pháp này đều xoay quanh học sinh, tạo mọi điều kiện để học sinh phát triển toàn diện về mọi mặt. Đồng thời, giúp học sinh làm chủ được bản thân, tự tin, năng động trước cuộc sống nhưng luôn luôn chủ động, tỉnh táo để sàng lọc và thu lượm được những gì tinh tuý nhất của tri thức nhân loại. 3.3. Dạy học truyện trung đại theo đặc trưng thể loại Trong ý đồ thiết kế và thực hiện chương trình dạy học Ngữ văn ở cấp THCS, thể loại là một tiêu chí quan trọng. Một trong những yêu cầu quan trọng của chương trình Ngữ văn THCS là hình thành ở HS những hiểu biết về các kiểu văn bản và nắm được các phương thức biểu đạt chủ yếu (tự sự, miêu tả, biểu cảm, thuyết minh, nghị luận). Hầu hết các văn bản được lựa chọn để học là các tác phẩm văn học (hoặc đoạn trích tác phẩm), vì thế mỗi kiểu văn bản trong chương trình Ngữ văn lại thuộc về một thể loại văn học nhất định. Những hiểu biết về thể loại có một ý nghĩa rất quan trọng không chỉ đối với việc tiếp nhận, phân tích các tác phẩm có trong chương trình, mà còn cần thiết cho HS để đọc hiểu được các tác phẩm khác ngoài chương trình. Như vậy, việc đọc- hiểu các văn bản trung đại theo đặc trưng thể loại là việc làm đúng đắn, mang tính khoa học. Phương thức biểu đạt được nhà văn sử dụng chủ yếu trong truyện chính là tự sự. Nhà văn kể lại, tái hiện lại hiện thực cuộc sống thông qua cái nhìn chủ quan của mình. Do vậy, trong truyện bao giờ cũng có cốt truyện, có các nhân vật tham gia vào trong truyện để tạo nên tình huống truyện, thể hiện ý đồ của tác giả. Cho nên, khi hướng dẫn học sinh đọc- hiểu các văn bản thuộc loại này, giáo viên cần giúp học sinh: Thứ nhất: Đọc và tìm hiểu các yếu tố ngoài văn bản. Cũng giống như những thể loại khác, muốn hiểu được đầy đủ nội dung và ý nghĩa của tác phẩm, không có con đường nào khác là phải đọc kĩ tác phẩm và tìm hiểu những yếu tố liên quan đến tác phẩm. Khi học bài “Hoàng Lê thống nhất chí - Hồi thứ 14”, học sinh phải đọc văn bản; có những kiến thức lịch sử nhất định thời Lê - Nguyễn và đặc điểm của thể loại tuyển thuyết chương hồi, học sinh mới có thể cảm nhận hết được giá trị của văn bản. Vì đây là văn bản được trích trong nên khi dạy, giáo viên cũng cần giúp học sinh đặt đoạn trích trong mối liên hệ với toàn tác phẩm để học sinh có cái nhìn toàn diện hơn đối với văn bản đang học. Thứ hai. Tóm tắt tác phẩm: Một trong những nguyên nhân gây nên tình trạng “nhầm lẫn” giữa nội dung của tác phẩm này với tác phẩm kia là do học sinh không biết tóm tắt văn bản. Việc tóm tắt là việc làm không thể thiếu khi học các văn bản tự sự. Tóm tắt sẽ làm cho văn bản trở nên ngắn gọn hơn, đồng thời giúp cho người đọc nắm được đầy đủ các sự việc cũng như trình tự diễn ra các sự việc ấy trong câu truyện và như thế học sinh sẽ dễ dàng nhớ được nội dung của tác phẩm. Chẳng hạn khi dạy “Chuyện người con gái Nam Xương”, sau khi học sinh tóm tắt xong văn bản, học sinh sẽ nhớ rõ được nhân vật chính và những tình tiết, sự kiện quan trọng trong câu chuyện như nàng Vũ Nương (tính tình hiền hậu, nết na, xinh đẹp, thuỷ chung), chồng của Vũ Nương tên là Trương Sinh (tính tình đa nghi, gia trưởng). Khi chiến tranh xảy ra, chồng nàng tham gia chiến trận, nàng ở nhà và ít lâu sau hạ sinh một đứa con trai. Mâu thuẫn giữa nàng và người chồng xảy ra khi câu chuyện xuất hiện them hình ảnh chiếc bóng do nàng tưởng tượng khi nàng nói với đứa con. Và đây cũng là đỉnh điểm, nút thắt của câu chuyện. Sau đó, để chứng minh sự trong sạch của mình, Vũ Nương đã trầm mình xuống sông tự vẫn. Trương Sinh về sau hối hận đã lập đàn giải oan cho nàng nhưng nàng chỉ xuất hiện trong giây lát rồi lại trở về thuỷ cung. Công việc tóm tắt tuy chiếm thời gian rất ít trong thời lượng của một tiết học nhưng nó cũng có thể đánh giá được phần nào mức độ đọc và hiểu nội dung, tư tưởng tác phẩm (tuy còn mờ nhạt) của học sinh, đồng thời cũng thể hiện ý thức chủ động tìm hiểu tác phẩm của học sinh. Điều này có vai trò rất quan trọng cho những hoạt động về sau. Gắn liền với tóm tắt tác phẩm là nhận ra chủ đề, đại ý của bài văn. Thứ ba. Nhận ra chủ đề của văn bản: Chủ đề của tác phẩm là vấn đề trung tâm, vấn đề bao quát được nhà văn nêu lên, đặt ra qua nội dung cụ thể của tác phẩm. Khi phản ánh hiện thực, nhà văn chẳng những xác định một phạm vi hiện tượng cuộc sống mà còn tập trung soi rọi một số vấn đề có ý nghĩa hàng đầu trong phạm vi đó. Nhà thơ Tố Hữu nói: “Vấn đề của nghệ thuật chính là chủ đề, nói nôm na cho dễ hiểu là câu hỏi- câu hỏi của cuộc đời”. Như vậy, chủ đề hình thành từ trong ý đồ và biểu hiện trong sáng tác. Chủ đề nói lên chiều sâu tư tưởng, khả năng nắm bắt nhạy bén của nhà văn đối với những vấn đề của cuộc sống. Cùng viết về xã hội phong kiến nhưng chủ đề trong Hoàng lê nhất thống chí, Thượng kinh kí sự, Vũ trung tuỳ bút lại hoàn toàn khác. Hoàng Lê nhất thống chí đề cao sự tài giỏi của người anh hùng áo vải Nguyễn Huệ trong cuộc chiến đấu chống triều đình nhà Thanh và bọn vua quan phản nước. Tóm lại, việc xác định chủ đề tác phẩm sẽ giúp định hướng được rõ ràng hơn những điều mà nhà văn viết trong tác phẩm. Thứ tư. Phân tích nhân vật và các tình tiết quan trọng trong tác phẩm để mở ra nội dung tác phẩm. Như chúng ta đã biết, cốt truyện và nhân vật là hai yếu tố cơ bản để tạo nên tác phẩm tự sự. Trong truyện có rất nhiều nhân vật và các nhân vật này xoay quanh một vấn đề, một sự việc nào đó nhằm thể hiện tư tưởng, ý nghĩa nhân sinh quan của nhà văn. Cho nên, khi tìm hiểu, bao giờ người phân tích cũng chú ý đến nhân vật. Tuy nhiên, cần phân biệt nhân vật chính, nhân vật trung tâm, nhân vật phụ. Nhân vật chính, nhân vật trung tâm là những nhân vật được nhà văn ưu ái nhất bởi thông qua những nhân vật này, họ thể hiện rõ quan điểm tư tưởng của mình. Chính bởi điều này nên cần phân tích kĩ loại nhân vật này. Cần tìm hiểu về hoàn cảnh, phẩm chất, tính cách thông qua lời kể, lời đối thoại giữa các nhân vật hoặc ngay cả lời bình của tác giả trong tác phẩm. Chẳng hạn, khi tìm hiểu ““Chuyện người con gái Nam Xương””, giáo viên cần giúp học sinh nhận ra nhân vật chính trong câu chuyện này là một người phụ nữ có dung nhan, đức hạnh; là người vợ thủy chung, người con hiếu thảo, người mẹ yêu thương con, người phụ nữ trọng nhân phẩm nhưng lại có số phận bất hạnh. Sau khi học sinh nhận ra được những hành động và việc làm của Vũ Nương, giáo viên cho học sinh nhận xét chung về nhân vật và qua nhân vật này học sinh có thể dễ dàng nhận ra được ý nghĩa của tác phẩm chính là: ca ngợi phẩm chất cao quí của người phụ nữ đồng thời phê phán xã hội trọng nam kinh nữ, lên án cuộc chiến tranh phi nghĩa. Ngoài các nhân vật chính, trong truyện còn có các nhân vật phụ. Các nhân vật phụ tham gia vào trong câu chuyện có tác dụng làm nổi bật lên nhân v
File đính kèm:
- sang_kien_kinh_nghiem_day_truyen_trung_dai_viet_nam_theo_phu.doc