Sáng kiến kinh nghiệm Định hướng phát triển năng lực lịch sử cho học sinh lớp 8 khi dạy chương III: Châu Á thế kỷ XVIII - đầu thế kỉ XX
Trong đợt tập huấn hè 2014, Bộ giáo dục đào tạo đã triển khai nội dung mới là “ Dạy học và kiểm tra, đánh giá kết quả học tập theo định hướng phát triển năng lực học sinh” ở môn lịch sử. Qua thực tế giảng dạy ở trường THCS, tôi thấy việc dạy- học lịch sử theo hướng phát triển năng lực học sinh chưa mang lại hiệu quả cao. Vì vậy tôi mạnh dạn trình bày sáng kiến “ Định hướng phát triển năng lực lịch sử cho học sinh lớp 8 khi dạy chương III: Châu Á thế kỉ XVIII- đầu thế kỉ XX ” nhằm nâng cao chất lượng dạy học Lịch sử.
Trong năm học 2014- 2015 tôi đã thực hiện việc dạy học theo định hướng phát triển năng lực lịch sử cho học sinh ở các khối lớp được phân công, đặc biệt chú trọng vào khối lớp 8 khi dạy Chương III: Châu Á thế kỉ XVIII- đầu thế kỉ XX. Khi thực hiện sáng kiến này, tôi đã được nhà trường tạo mọi điều kiện tốt nhất về cơ sở vật chất, đầu tư trang thiết bị dạy học hiện đại. Bản thân lại hăng say, nhiệt tình, tâm huyết với nghề và nắm vững các phương pháp dạy học lịch sử theo định hướng phát triển năng lực học sinh. Bạn bè đồng nghiệp tích cực dự giờ, tham gia đóng góp ý kiến đánh giá kết quả thực thi của sáng kiến. Học sinh nâng cao ý thức học tập bộ môn, chất lượng môn học nâng lên rõ rệt.
Sáng kiến đã nêu rõ các năng lực chung và năng lực chuyên biệt cần hình thành cho học sinh ở môn Lịch sử. Đặc biệt sáng kiến đi sâu nghiên cứu biện pháp để hình thành năng lực chuyên biệt cho học sinh khi dạy chương III lịch sử lớp 8. Đó là các năng lực: tái hiện sự kiện, hiện tượng, nhân vật lịch sử; năng lực thực hành bộ môn lịch sử; năng lực nhận xét, đánh giá rút ra bài học lịch sử từ những sự kiện, vấn đề, hiện tượng, nhân vật lịch sử; năng lực vận dụng, liên hệ kiến thức lịch sử đã học vào giải quyết những vấn đề thực tiễn đặt ra. Sáng kiến có những sáng tạo trong việc hình thành các năng lực cho học sinh: giáo viên là người tổ chức và chỉ đạo học sinh tiến hành các hoạt động học tập và có sự kết hợp đa dạng các phương pháp, hình thức dạy học lịch sử.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Định hướng phát triển năng lực lịch sử cho học sinh lớp 8 khi dạy chương III: Châu Á thế kỷ XVIII - đầu thế kỉ XX
THÔNG TIN CHUNG VỀ SÁNG KIẾN 1. Tên sáng kiến: “Định hướng phát triển năng lực lịch sử cho học sinh lớp 8 khi dạy chương III: Châu Á thế kỷ XVIII – đầu thế kỉ XX” 2. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến: Môn Lịch sử 3. Tác giả: Họ và tên: Phạm Thị Vân - Nữ Sinh ngày: 15 tháng 12 năm 1982 Trình độ chuyên môn: ĐH Sử Chức vụ, đơn vị công tác: Giáo viên Trường THCS Ninh Hải Điện thoại: 01687961226 4. Đồng tác giả: Họ và tên: Hà Thị Tú - Nữ Sinh ngày: 17 tháng 07 năm 1962 Trình độ chuyên môn: ĐH Sử Chức vụ, đơn vị công tác: Hiệu trưởng Trường THCS Ninh Hải Điện thoại: 0982845228 5. Chủ đầu tư tạo ra sáng kiến: Phạm Thị Vân; Hà Thị Tú 6. Đơn vị áp dụng sáng kiến lần đầu: Trường THCS Ninh Hải 7. Các điều kiện cần thiết để áp dụng sáng kiến: - Giáo viên phải tâm huyết, say mê với nghề, nắm vững và vận dụng tốt các phương pháp trong dạy – học lịch sử theo định hướng phát triển năng lực học sinh. - Giáo viên có sự chuẩn bị chu đáo cho việc dạy học và biết ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học để nâng cao hiệu quả dạy học lịch sử. - Cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ cho hoạt động dạy học đầy đủ: bản đồ, tranh ảnh, tài liệu tham khảo, máy chiếu đa năng... 8. Thời gian áp dụng sáng kiến lần đầu: Trong năm học 2014-2015 HỌ VÀ TÊN TÁC GIẢ Phạm Thị Vân Hà Thị Tú XÁC NHẬN CỦA CƠ QUAN ĐƠN VỊ ÁP DỤNG SÁNG KIẾN TÓM TẮT SÁNG KIẾN Trong đợt tập huấn hè 2014, Bộ giáo dục đào tạo đã triển khai nội dung mới là “ Dạy học và kiểm tra, đánh giá kết quả học tập theo định hướng phát triển năng lực học sinh” ở môn lịch sử. Qua thực tế giảng dạy ở trường THCS, tôi thấy việc dạy- học lịch sử theo hướng phát triển năng lực học sinh chưa mang lại hiệu quả cao. Vì vậy tôi mạnh dạn trình bày sáng kiến “ Định hướng phát triển năng lực lịch sử cho học sinh lớp 8 khi dạy chương III: Châu Á thế kỉ XVIII- đầu thế kỉ XX ” nhằm nâng cao chất lượng dạy học Lịch sử. Trong năm học 2014- 2015 tôi đã thực hiện việc dạy học theo định hướng phát triển năng lực lịch sử cho học sinh ở các khối lớp được phân công, đặc biệt chú trọng vào khối lớp 8 khi dạy Chương III: Châu Á thế kỉ XVIII- đầu thế kỉ XX. Khi thực hiện sáng kiến này, tôi đã được nhà trường tạo mọi điều kiện tốt nhất về cơ sở vật chất, đầu tư trang thiết bị dạy học hiện đại. Bản thân lại hăng say, nhiệt tình, tâm huyết với nghề và nắm vững các phương pháp dạy học lịch sử theo định hướng phát triển năng lực học sinh. Bạn bè đồng nghiệp tích cực dự giờ, tham gia đóng góp ý kiến đánh giá kết quả thực thi của sáng kiến. Học sinh nâng cao ý thức học tập bộ môn, chất lượng môn học nâng lên rõ rệt. Sáng kiến đã nêu rõ các năng lực chung và năng lực chuyên biệt cần hình thành cho học sinh ở môn Lịch sử. Đặc biệt sáng kiến đi sâu nghiên cứu biện pháp để hình thành năng lực chuyên biệt cho học sinh khi dạy chương III lịch sử lớp 8. Đó là các năng lực: tái hiện sự kiện, hiện tượng, nhân vật lịch sử; năng lực thực hành bộ môn lịch sử; năng lực nhận xét, đánh giá rút ra bài học lịch sử từ những sự kiện, vấn đề, hiện tượng, nhân vật lịch sử; năng lực vận dụng, liên hệ kiến thức lịch sử đã học vào giải quyết những vấn đề thực tiễn đặt ra. Sáng kiến có những sáng tạo trong việc hình thành các năng lực cho học sinh: giáo viên là người tổ chức và chỉ đạo học sinh tiến hành các hoạt động học tập và có sự kết hợp đa dạng các phương pháp, hình thức dạy học lịch sử. Đây là một nội dung mới trong dạy học hiện nay nhằm phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinh, rèn luyện kỹ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn, tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, tạo hứng thú học tập cho các em và nâng cao chất lượng môn học lịch sử hiện nay. Sáng kiến đã mang lại ý nghĩa thiết thực trong dạy học chương III: Châu Á thế kỉ XVIII- đầu thế kỉ XX( Lịch sử lớp 8). Điều này được thể hiện rất rõ qua việc so sánh, đối chiếu trước và sau khi áp dụng sáng kiến. Tâm lí học sinh đã thay đổi, các em không còn sợ học, ngại học lịch sử như trước mà đã tích cực, chủ động, sáng tạo trong học tập bộ môn. Đồng thời hình thành được những năng lực cần thiết cho học sinh. Các em không chỉ biết, hiểu mà còn có khả năng vận dụng kiến thức lịch sử đã học vào thực tiễn. Đặc biệt khi dạy bài 11, 12 ở chương III lịch sử lớp 8, tôi cho học sinh liên hệ đến vấn đề biển đảo hiện nay đã phát huy được tư duy, sáng tạo của các em trong việc giải quyết các tình huống thực tiễn. Ngoài ra, chất lượng môn học cũng được nâng lên. Điều này được thể hiện rõ qua kết quả khảo sát chất lượng học sinh sau khi áp dụng sáng kiến với kết quả khảo sát trước khi áp dụng sáng kiến trong tực tiễn. Tỉ lệ học sinh đạt loại khá, giỏi tăng lên và tỉ lệ học sinh đạt loại trung bình, loại yếu giảm đi đáng kể. Với phần lí luận về các năng lực chuyên biệt cần hình thành cho học sinh trong môn Lịch sử và biện pháp hình thành năng lực đó của sáng kiến sẽ giúp giáo viên có thể vận dụng linh hoạt vào dạy học lịch sử hiện nay ở cấp Trung học cơ sở. Không chỉ vậy, sáng kiến còn khẳng định được giá trị to lớn hơn vượt giới hạn của bộ môn bởi nó rất thiết thực hiệu quả, có thể vận dụng trong nhiều môn khoa học xã hội khác như: Văn, Địa, Giáo dục công dân. Để sáng kiến được nhân rộng hơn, các cấp quản lí giáo dục cần tổ chức có hiệu quả các buổi sinh hoạt chuyên đề theo mô hình liên trường, cấp huyện để giáo viên có điều kiện kiện giao lưu, học hỏi kinh nghiệm về đổi mới phương pháp dạy học lịch sử theo hướng phát triển năng lực học sinh; tăng cường đầu tư cơ sở vật chất, xây dựng phòng học bộ môn lịch sử, mua sắm trang thiết bị dạy học hiện đại như máy chiếu, máy vi tính... để giáo viên dễ dàng tổ chức các hoạt động dạy học một cách hiệu quả nhất. MÔ TẢ SÁNG KIẾN 1. Hoàn cảnh nảy sinh sáng kiến Trong hè năm 2014, Bộ giáo dục và đào tạo đã chỉ đạo các Sở giáo dục, Phòng giáo dục đào tạo tổ chức tập huấn nội dung “ Dạy học và kiểm tra đánh giá kết quả học tập theo định hướng phát triển năng lực học sinh” ở các môn học nói chung và môn Lịch sử nói riêng nhằm nâng cao chất lượng dạy học. Qua thực tế giảng dạy bộ môn Lịch sử ở trường THCS, tôi thấy việc dạy học Lịch sử vẫn còn nhiều hạn chế. Hoạt động đổi mới phương pháp dạy học Lịch sử ở trường THCS chưa mang lại hiệu quả cao. Dạy học vẫn nặng về truyền thụ kiến thức lí thuyết. Việc rèn luyện kỹ năng sống, kỹ năng giải quyết các tình huống thực tiễn cho học sinh chưa thực sự được quan tâm. Số giáo viên thường xuyên chủ động, sáng tạo trong việc phối hợp các phương pháp dạy học cũng như sử dụng các phương pháp dạy học phát huy tính tích cực, tự lực và sáng tạo của học sinh chưa nhiều. Đa số học sinh sợ học và ngại học môn Lịch sử. Xuất phát từ hoàn cảnh trên, tôi mạnh dạn trình bày sáng kiến “ Định hướng phát triển năng lực lịch sử cho học sinh lớp 8 khi dạy chương III: Châu Á thế kỉ XVIII- đầu thế kỉ XX ” nhằm tạo hứng thú học tập cho học sinh và nâng cao chất lượng dạy học Lịch sử. 2. Cơ sở lí luận của vấn đề Những quan điểm và đường lối chỉ đạo của Nhà nước về đổi mới giáo dục đã được thể hiện trong nhiều văn bản, đặc biệt trong các văn bản dưới đây: Chiến lược phát triển giáo dục giai đoạn 2011- 2020 ban hành kèm theo Quyết định 711 ngày 13/6/2012 của Thủ tướng Chính phủ chỉ rõ : " Tiếp tục đổi mới phương pháp dạy học và đánh giá kết quả học tập theo định hướng phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo và năng lực tự học của người học ». Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8 khóa XI về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo xác định " Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ và đồng bộ các yếu tố cơ bản của giáo dục, đào tạo theo hướng coi trọng phát triển phẩm chất, năng lực của người học ». Những quan điểm nêu trên đã tạo tiền đề, cơ sở và môi trường pháp lí thuận lợi cho việc đổi mới đồng bộ phương pháp dạy học, kiểm tra đánh giá theo định hướng năng lực của người học. Dạy học lịch sử theo định hướng phát triển năng lực của học sinh được thể hiện ở chỗ, học sinh được hình thành và phát triển các năng lực chung và năng lực chuyên biệt của bộ môn Lịch sử. 3. Thực trạng của việc dạy- học lịch sử hiện nay Cho đến nay, việc thực hiện đổi mới phương pháp dạy học nói chung và đổi mới phương pháp dạy học Lịch sử nói riêng đã được tiến hành ở bậc THCS xong còn chậm, chưa mang lại hiệu quả cao, chưa chú ý hình thành các năng lực cần thiết cho học sinh. Qua điều tra thực tế, tôi thấy số giáo viên thường xuyên chủ động, sáng tạo trong việc phối hợp các phương pháp dạy- học cũng như sử dụng các phương pháp dạy- học phát huy năng lực học sinh chưa nhiều. Dạy học vẫn nặng về truyền thụ kiến thức lí thuyết. Việc rèn luyện kỹ năng sống, kỹ năng giải quyết các tình huống thực tiễn chưa thực sự được quan tâm. Trong dạy học lịch sử hiện nay, nhiều giáo viên còn gặp khó khăn, chưa tìm được cho mình những biện pháp thích hợp để hình thành và phát triển năng lực học sinh. Về phía học sinh, đa số các em không thích học và sợ học lịch sử. Nhiều em còn “mơ hồ” về lịch sử dân tộc và lịch sử thế giới. Những sự kiện quan trọng trong lịch sử dân tộc và lịch sử thế giới, nhiều học sinh không biết và không hiểu. Các em còn thiếu các kỹ năng cơ bản của bộ môn và năng lực vận dụng liên hệ kiến thức lịch sử đã học để giải quyết những vấn đề thực tiễn đặt ra là rất yếu. Chất lượng môn học lịch sử còn thấp. Điều này được thể hiện rất rõ khi tôi tiến hành khảo sát chất lượng học sinh lớp 8 qua bài kiểm tra 15 phút vào đầu năm học trước khi áp dụng sáng kiến. Kết quả khảo sát như sau: Khối Số HS Giỏi Khá Trung bình Yếu SL % SL % SL % SL % 8 60 8 13,3 19 31,7 27 45 6 10 Là một giáo viên dạy bộ môn Lịch sử ở trường THCS, trực tiếp tham gia giảng dạy chương trình Lịch sử lớp 8, tôi luôn suy nghĩ và tự xác định cho mình làm thế nào để sử dụng có hiệu quả các phương pháp dạy học phát huy được năng lực của học sinh trong môn lịch sử nói chung và chương III lịch sử lớp 8 nói riêng, đồng thời góp phần nâng cao chất lượng môn học. Vì vậy, tôi mạnh dạn trình bày sáng kiến “ Định hướng phát triển năng lực lịch sử cho học sinh lớp 8 khi dạy chương III: Châu Á thế kỉ XVIII- đầu thế kỉ XX ”. 4. Các giải pháp, biện pháp thực hiện 4.1. Khái niệm năng lực và dạy học theo định hướng phát triển năng lực học sinh. 4.1.1. Khái niệm năng lực Năng lực là khả năng vận dụng những kiến thức, kinh nghiệm, kỹ năng, thái độ và hứng thú để hành động một cách phù hợp và có hiệu quả trong các tình huống đa dạng của việc học tập và cuộc sống. Năng lực gồm có năng lực chung và năng lực chuyên biệt. Các năng lực chung cùng với năng lực chuyên môn tạo thành nền tảng chung cho công việc giáo dục và dạy học. 4.1.2 Năng lực chung Là những năng lực cơ bản, thiết yếu để con người có thể sống và làm việc bình thường trong xã hội. Năng lực chung được hình thành và phát triển do nhiều môn học, liên quan đến nhiều môn học. Có 9 năng lực chung như sau: - Năng lực tự học. - Năng lực giải quyết vấn đề - Năng lực sáng tạo( Năng lực tư duy) - Năng lực quản lý - Năng lực giao tiếp - Năng lực hợp tác, hội nhập - Năng lực sử dụng công nghệ thông tin và truyền thông - Năng lực sử dụng ngôn ngữ - Năng lực tính toán 4.1.3 Năng lực chuyên biệt Năng lực chuyên biệt là những năng lực được hình thành và phát triển trên cơ sở các năng lực chung theo định hướng chuyên sâu, riêng biệt. Năng lực chuyên biệt của môn Lịch sử được hình thành trên cơ sở những năng lực chung, kết hợp với đặc thù môn Lịch sử và chương trình giáo dục phổ thông. Năng lực chuyên biệt cần hình thành và phát triển cho học sinh trong môn Lịch sử ở cấp THCS là: - Năng lực tái hiện sự kiện, hiện tượng, nhân vật lịch sử. - Năng lực thực hành bộ môn. - Năng lực xác định và giải quyết mối liên hệ, ảnh hưởng tác động giữa các sự kiện lịch sử với nhau. - Năng lực so sánh, phân tích, phản biện, khái quát hóa. - Năng lực nhận xét, đánh giá rút ra bài học lịch sử từ những sự kiện, hiện tượng, vấn đề, nhân vật lịch sử. - Năng lực vận dụng, liên hệ kiến thức lịch sử đã học để giải quyết những vấn đề thực tiễn đặt ra. 4.1.4. Dạy học theo định hướng phát triển năng lực Dạy học theo định hướng phát triển năng lực còn gọi là dạy học định hướng kết quả đầu ra là xu hướng giáo dục quốc tế hiện nay. Dạy học theo định hướng phát triển năng lực nhấn mạnh vai trò của người học với tư cách là chủ thể có nghĩa là: Về phương pháp: Giáo viên chủ yếu là người tổ chức hỗ trợ HS tự lực và tích cực lĩnh hội tri thức. Chú trọng khả năng giải quyết vấn đề, khả năng giao tiếp. Chú trọng sử dụng các quan điểm phương pháp dạy học tích cực, các phương pháp dạy học thực nghiệm thực hành Hình thức dạy học: Tổ chức học tập đa dạng, chú ý các hoạt động xã hội, ngoại khóa, nghiên cứu khoa học, trải nghiệm sáng tạo, đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin và truyền thông trong dạy và học. Kết quả HS với vai trò chủ thể đạt được là các chuẩn kiến thức, kĩ năng của chương trình đã được Bộ giáo dục quy định, trong đó chú trọng đến khả năng vận dụng kiến thức để giải quyết các tình huống thực tiễn và kết quả này có tính đến sự tiến bộ, thái độ trong quá trình học tập. Nói một cách khác kết quả học tập của học sinh đạt được là “bốn H”: Học để biết- Học để làm- Học để cùng chung sống và học để tự khẳng định. Dạy học theo định hướng phát triển năng lực không chỉ chú ý về hoạt động trí tuệ mà còn chú ý rèn luyện năng lực giải quyết vấn đề gắn với những tình huống của cuộc sống, gắn hoạt động trí tuệ với hoạt động thực hành, thực tiễn và nâng cao hứng thú cho người học. 4.2. Chuẩn kiến thức, kĩ năng, thái độ theo chương trình hiện hành khi dạy Chương III: Châu Á thế kỉ XVIII- đầu thế kỉ XX. 4.2.1. Kiến thức: *HS biết: - Nêu được sự xâm lược và chính sách thống trị của Anh đối với Ấn Độ. - Kể tên được các cuộc đấu tranh của nhân dân Ấn Độ chống thực dân Anh. - Trình bày được sự xâm lược của các nước đế quốc đối với Trung Quốc. - Nêu được diễn biến của cách mạng Tân Hợi (1911). - Trình bày được quá trình xâm lược của chủ nghĩa thực dân ở Đông Nam Á. - Trình bày được nội dung và ý nghĩa của cuộc Duy tân Minh Trị ở Nhật Bản cuối thế kỉ XIX - đầu thế kỉ XX. *HS hiểu: - Giải thích vì sao nhân dân Ấn Độ nổi dậy chống lại thực dân Anh. - Giải thích được vì sao các nước đế quốc tranh nhau xâu xé Trung Quốc. * HS vận dụng: - Nhận xét được chính sách cai trị của thực dân Anh và hậu quả của nó đối với Ấn Độ. - Lập được niên biểu về phong trào chống thực dân Anh của nhân dân Ấn Độ từ giữa thế kỉ XIX đến đầu thế kỉ XX; bảng niên biểu về phong trào đấu của nhân dân Trung Quốc, các nước Đông Nam Á cuối thế kỉ XIX - đầu thế kỉ tranh XX. - Liên hệ với vấn đề biển Đông hiện nay; Trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay,Việt Nam học tập được gì từ kinh nghiệm của Nhật Bản. 4.2.2. Kỹ năng: - Khai th¸c néi dung vµ sö dông kªnh h×nh trong SGK. - X¸c ®Þnh vÞ trÝ níc Trung Quốc, Nhật Bản, Ấn Độ, các nước Đông Nam Á trªn bản ®å. - Kỹ năng lập bảng niên biểu. - Kĩ năng phân tích, nhận xét các sự kiện, đánh giá nhân vật lịch sử. 4.2.3.Thái độ: - Bồi dưỡng cho học sinh lòng căm thù với sự thống trị dã man của chủ nghĩa thực dân đối với các nước thuộc địa. - Khâm phục tinh thần đấu tranh của nhân dân Ấn Độ, các nước Đông Nam Á trong cuộc đấu tranh chống lại chủ nghĩa đế quốc. - Bồi dưỡng tinh thần đoàn kết, hữu nghị với các nước trong khu vực Đông Nam Á. - Nhận thức rõ vai trò của cải cách tiến bộ đối với sự phát triển xã hội. 4.2.4 Bảng mô tả: - Trong dạy học lịch sử để giáo viên xác định đúng mục tiêu bài học và kiểm tra đánh giá theo các cấp độ tư duy thì cần chú ý tới các từ khóa tương ứng với các cấp độ tư duy như sau: + Nhận biết: Với các động từ: nêu, liệt kê, trình bày, kể tên, nhận biết... + Thông hiểu: Với các động từ: hiểu được, giải thích, phân biệt, tại sao, vì sao, hãy lí giải, khái quát... + Vận dụng thấp: Với các động từ: xác định, khám phá, dự đoán, vẽ sơ đồ, lập niên biểu, phân biệt, chứng minh... + Vận dụng cao: Với các động từ: bình luận, nhận xét, đánh giá, rút ra bài học lịch sử, liên hệ thực tiễn... Việc xác định chuẩn kiến thức, kĩ năng rất quan trọng, giúp giáo viên có định hướng trong quá trình dạy học để đạt được mục tiêu bài học cũng như hình thành được các năng lực cho học sinh. Tuy nhiên tùy theo đối tượng học sinh mà giáo viên có sự nâng chuẩn sao cho phù hợp. Khi dạy chương III: Châu Á thế kỉ XVIII- đầu thế kỉ XX ( Lịch sử 8), tôi đã xây dựng bảng mô tả như sau: Nội dung Nhận biết (Mô tả mức độ cần đạt) Thông hiểu (Mô tả mức độ cần đạt) Vận dụng thấp (Mô tả mức độ cần đạt) Vận dụng cao (Mô tả mức độ cần đạt) 1. Ấn Độ thế kỉ XVIII - đầu thế kỉ XX. - Nêu được sự xâm lược và chính sách thống trị của Anh đối với Ấn Độ. - Kể tên được các cuộc đấu tranh của nhân dân Ấn Độ chống thực dân Anh. Giải thích vì sao nhân dân Ấn Độ nổi dậy chống lại thực dân Anh. - Nhận xét được chính sách cai trị của thực dân Anh và hậu quả của nó đối với Ấn Độ. - Lập được niên biểu về phong trào chống thực dân Anh của nhân dân Ấn Độ từ giữa thế kỉ XIX đến đầu thế kỉ XX. 2. Trung Quốc giữa thế kỉ XIX - đầu thế kỉ XX. - Trình bày được sự xâm lược của các nước đế quốc đối với Trung Quốc. - Nêu được diễn biến của cách mạng Tân Hợi (1911). - Giải thích được vì sao các nước đế quốc tranh nhau xâu xé Trung Quốc. - Lập được niên biểu các cuộc đấu tranh của nhân dân Trung Quốc từ cuối thế kỉ XIX đến năm 1911. - Nhận xét được điểm tích cực và hạn chế của Cách mạng Tân Hợi (1911). 3. Các nước Đông Nam Á cuối thế kỉ XIX - đầu thế kỉ XX. - Trình bày được quá trình xâm lược của chủ nghĩa thực dân ở Đông Nam Á. - Giải thích được vì sao khu vực Đông Nam Á trở thành đối tượng xâm lược của các nước tư bản phương Tây. - Giải thích được vì sao phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc của các nước Đông Nam Á đều thất bại. - Lập được niên biểu về các cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc của nhân dân Đông Nam Á cuối thế kỉ XIX - đầu thế kỉ XX. - Nhận xét được đặc điểm chung của phong trào giải phóng dân tộc ở Đông Nam Á. - Liên hệ được với bối cảnh hiện nay, khi Trung Quốc đang có âm mưu và hành động xâm chiếm Biển Đông. 4. Nhật Bản giữa thế kỉ XIX - đầu thế kỉ XX. - Trình bày được nội dung và ý nghĩa của cuộc Duy tân Minh Trị ở Nhật Bản cuối thế kỉ XIX - đầu thế kỉ XX. - Giải thích được vì sao Thiên hoàng Minh Trị thực hiện cải cách. - Chứng minh được vào cuối thế kỉ XIX - đầu thế kỉ XX Nhật Bản chuyển sang giai đoạn đế quốc chủ nghĩa. - Suy nghĩ về chính sách cải cách của Thiên hoàng Minh Trị. - Đánh giá được công lao của Thiên hoàng Minh Trị. - Liên hệ với công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay của nước ta. * Định hướng năng lực cần hình thành cho học sinh: - Năng lực chung: sử dụng ngôn ngữ, giải quyết vấn đề, sáng tạo, tự học, tư duy. - Năng lực chuyên biệt: + Năng lực tái hiện sự kiện, nhân vật lịch sử: Trình bày được sự xâm lược và chính sách thống trị của Anh đối với Ấn Độ; Kể tên được các cuộc đấu tranh của nhân dân Ấn Độ chống thực dân Anh; Trình bày được sự xâm lược của các nước đế quốc đối với Trung Quốc; Nêu được diễn biến của cách mạng Tân Hợi (1911); Trình bày được quá trình xâm lược của chủ nghĩa thực dân ở Đông Nam Á. Trình bày được nội dung và ý nghĩa của cuộc Duy tân Minh Trị ở Nhật Bản cuối thế kỉ XIX - đầu thế kỉ XX. + Năng lực thực hành bộ môn lịch sử: Xác định được vị trí của Trung Quốc, Ấn Độ, Nhật Bản và các nước Đông Nam Á trên bản đồ châu Á; Lập được niên biểu về phong trào giải phóng dân tộc của nhân dân Ấn Độ, Trung Quốc và các nước Đông Nam Á từ giữa thế kỉ XIX đến đầu thế kỉ XX; + Năng lực nhận xét, đánh giá về vấn đề, nhân vật lịch sử: Nhận xét các phong trào đấu tranh của nhân dân Ấn Độ, Trung Quốc và các nước Đông Nam Á; đánh giá được công lao của Thiên hoàng Minh Trị. + Năng lực vận dụng, liên hệ thực tiễn: liên hệ với vấn đề Biển Đông hiện nay: Trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay, Việt Nam học tập được gì từ kinh nghiệm của Nhật Bản. 4.3. Biện pháp hình thành và phát triển một số năng lực cho học sinh khi dạy chương III- Lịch sử 8. Có rất nhiều năng lực chung và năng lực chuyên biệt của môn Lịch sử, ở sáng kiến này tôi chỉ đi sâu tìm hiểu một số năng lực chuyên biệt cần được hình thành và phát triển cho học sinh khi dạy học chương III - Lịch sử lớp 8. Để biết được các biện pháp hình thành năng lực, trước hết mỗi giáo viên cần hiểu được mối quan hệ giữa năng lực với kiến thức, kỹ năng, thái độ. Một năng lực là tổ hợp đo lường được các kiến thức, kỹ năng và thái độ mà người học vận dụng để thực hiện một nhiệm vụ trong bối cảnh thực tế. Kiến thức là cơ sở để hình thành năng lực, là nguồn lực để người học tìm được các giải pháp tối ưu để thực hiện nhiệm vụ đặt ra. Việc hình thành và rèn luyện năng lực được diễn ra theo hình xoáy trôn ốc, trong đó các năng lực có trước được sử dụng để kiến tạo kiến thức mới, kiến thức mới lại đặt cơ sở để hình thành những năng lực mới. Kỹ năng là những thao tác, những cách thức thực hành, vận dụng kiến thức, kinh nghiệm đã có để thực hiện một hoạt động nào đó. Kiến thức, kỹ năng là cơ sở cần thiết để hình thành năng lực trong một hoạt động, lĩnh vực nào đó. Tuy nhiên nếu chỉ có kiến thức, kỹ năng thì chưa chắc đã được coi là có năng lực, mà còn cần đến việc sử dụng hiệu quả các nguồn kiến thức, kỹ năng cùng với thái độ, giá trị, trách nhiệm bản thân để thực hiện thành công các nhiệm vụ. 4.3.1. Năng lực tái hiện sự kiện, hiện tượng, nhân vật lịch sử Là khả năng của học sinh tái hiện lại các sự kiện, hiện tượng, nhân vật lịch sử có ảnh hưởng đến lịch sử thế giới và dân tộc. Năng lực tái hiện sự kiện, hiện tượng, nhân vật lịch sử của học sinh được thể hiện dưới hình thức ngôn ngữ nói và viết. Trong dạy- học lịch sử hiện nay, nhiều giáo viên còn coi nhẹ việc hình thành năng lực này cho học sinh. Để hình thành được năng lực này cho học sinh, giáo viên cần hướng dẫn học sinh: Thứ nhất, học sinh phải nắm vững các sự kiện, hiện tượng hay nhân vật lịch sử. Thứ hai, ngôn ngữ trình bày trong sáng, gãy gọn, dùng từ chính xác và bằng ngôn ngữ của mình. Thứ ba, có thể kết hợp với sử dụng đồ dùng trực quan, tài liệu tham khảo. Nhiều học sinh rất lúng túng trong việc trình bày các sự kiện, hiện tượng lịch sử. Do đó giáo viên phải hướng dẫn cụ thể cho các em, động viên các em tự tin, bình tĩnh trình bày vấn đề một cách rõ ràng, mạch lạc. Ví dụ: Ở bài 12: Nhật Bản giữa thế kỉ XIX- đầu thế kỉ XX, khi tìm hiểu phần II: Nhật Bản chuyển sang chủ nghĩa đế quốc, giáo viên đặt câu hỏi: ? Trình bày quá trình xâm lược và bành trướng của Nhật Bản cuối thế kỉ XIX- đầu thế kỉ XX? Để hình thành năng lực tái hiện lịch sử cho học sinh, giáo viên chiếu lược đồ H.49 và hướng dẫn học sinh quan sát lược đồ, kết hợp với phần kênh chữ ở sách giáo khoa trang 69 để tìm hiểu về quá trình xâm lược của Nhật Bản. Hình 49. Lược đồ đế quốc Nhật cuối thế kỉ XIX- đầu thế kỉ XX. Giáo viên có câu hỏi gợi ý cho học sinh: Kể tên các vùng đất mà Nhật chiếm được qua các năm? Việc đó nói lên điều gì? Đối tượng xâm lược chính của Nhật Bản là nước nào? Tại sao? Học sinh có thời gian 2 phút để chuẩn bị. Sau đó, giáo viên yêu cầu học sinh lên bảng trình bày chỉ trên lược đồ để thấy được quá trình bành trướng của giới cầm quyền Nhật Bản. Sau khi học sinh trình bày xong, HS khác nhận xét sau đó giáo viên sẽ nhận xét và có thể cho điểm miệng đối với học sinh trình bày tốt. Với những học sinh trình bày chưa tốt, giáo viên động viên rút kinh nghiệm cho các em về cách dùng từ, cách chỉ trên lược đồ. Với cách làm như vậy, giáo viên sẽ hình thành năng lực tái hiện lịch sử cho học sinh, giúp các em tự tin để trình bày tốt vấn đề lịch sử. 4.3.2. Năng lực thực hành bộ môn lịch sử Năng lực này được thể hiện ở chỗ học sinh biết quan sát, đọc, khai thác nội dung lịch sử thông qua bản đồ, lược đồ, tranh ảnh... Các em còn biết lập niên biểu các cuộc kháng chiến chống ngoại xâm, các chiến dịch, các phong bảng trào đấu tranh giải phóng dân tộc, thành tựu về kinh tế, văn hóa... Qua dự giờ, tôi thấy nhiều giáo viên chưa chú ý đến năng lực thực hành bộ môn cho học sinh. Do đó, kỹ năng chỉ bản đồ, lược đồ và trình bày diễn biến trên lược đồ của học sinh rất yếu. Một số giáo viên chưa chú ý đến việc khai thác kiến thức lịch sử từ lược đồ, tranh ảnh mà chỉ dùng để minh họa cho bài giảng. Trong khi đó, bản đồ, lược đồ và tranh ảnh là một kênh thông tin cần thiết, trực quan để cung cấp kiến thức cho học sinh giúp các em dễ nhận biết và nhớ lâu kiến thức lịch sử. * Hình thành cho học sinh năng lực quan sát, đọc và trình bày diễn biến trên bản đồ, lược đồ và biết khai thác nội dung cần thiết thông qua bản đồ, lược đồ, giáo viên cần chú ý: - Thứ nhất, giáo viên hướng dẫn cho học sinh biết tên của bản đồ, lược đồ. - Thứ hai, hướng dẫn học sinh đọc bản chú giải để hiểu rõ nội dung các kí hiệu thể hiện trên bản đồ, lược đồ. - Thứ ba, giáo viên hướng dẫn học sinh khai thác nội dung các sự kiện lịch sử, kiến thức lịch sử được diễn đạt bằng ngôn ngữ bản đồ, từ đó rút ra những kết luận cần thiết. Giáo viên cần hướng dẫn học sinh đứng ở bên phải bản đồ, lược đồ, tay phải dùng que chỉ các địa điểm cho thật chính xác. Đối với việc trình bày diễn biến một trận đánh trên bản đồ hay lược đồ, giáo viên còn hướng dẫn học sinh kết hợp với phần kênh chữ trong sách giáo khoa để tường thuật được đầy đủ hơn. Ví dụ 1: Khi dạy bài 10 Trung Quốc cuối thế kỉ XIX - đầu thế kỉ XX cho học sinh tìm hiểu nội dung phần I Trung Quốc bị các nước đế quốc chia xẻ, tôi đã tiến hành như sau: Để tìm hiểu “ Vì sao các nước đế quốc tranh nhau xâm chiếm Trung Quốc”, tôi sử dụng bản đồ châu Á, hướng dẫn HS quan sát và yêu cầu học sinh lên xác định vị trí, giới hạn của Trung Quốc trên bản đồ. Bản đồ các nước châu Á. Từ việc quan sát và xác định vị trí của Trung Quốc trên bản đồ, học sinh sẽ thấy được Trung Quốc là một nước có diện tích rộng lớn, đông dân, giàu tài nguyên. Đó cũng chính là một trong những nguyên nhân để các nước đế quốc tranh nhau xâm chiếm Trung Quốc. Tiếp theo, tôi hướng dẫn học sinh quan sát Lược đồ Trung Quốc bị các nước đế quốc chia xẻ. Phúc Kiến Quảng Đông Quảng Tây Sông Dương Tử Mãn Châu Mông Cổ Bắc Kinh Sơn Đông :Anh : Pháp : Nga- Nhật : Đức : Nhật Sau đó yêu cầu học sinh lên xác định trên lược đồ những khu vực của Trung Quốc bị các nước đế quốc xâm chiếm. Ngoài ra còn kết hợp cho học sinh quan sát Hình 42- Các nước đế quốc xâu xé “ cái bánh ngọt” Trung Quốc. Hình 42. Các nước đế quốc xâu xé “ cái bánh ngọt” Trung Quốc Giáo viên giới thiệu vài nét về nội dung thể hiện qua bức tranh như cái bánh, dòng chữ, chân dung các nhân vật xung quanh... rồi có những câu hỏi gợi mở. Qua đó học sinh hiểu được Trung Quốc được ví như một chiếc bánh ngọt để các nước đế quốc mỗi tên chiếm một phần. Kể từ trái qua phải là Hoàng đế Đức, Tổng thống Pháp, Nga hoàng, Nhật hoàng, Tổng thống Mĩ và Thủ tướng Anh. Với việc làm này, giáo viên đã hình thành và phát triển cho học sinh kỹ năng chỉ lược đồ và biết khai thác nội dung lịch sử thông qua lược đồ, tranh ảnh. Ví dụ 2: Dạy bài 11 Các nước Đông Nam Á cuối thế kỉ XIX- đầu thế kỉ XX Giáo viên cũng cho học sinh quan sát bản đồ khu vực Đông Nam Á cuối thế kỉ XIX rồi chú thích cho học sinh biết các kí hiệu trên lược đồ. Sau đó giáo viên hướng dẫn học sinh kết hợp phần kênh chữ trong sách giáo khoa với việc quan sát lựơc đồ trả lời câu hỏi: Vì sao khu vực Đông Nam Á trở thành đối tượng xâm lược của các nước tư bản phương Tây? Bản đồ khu vực Đông Nam Á Giáo viên yêu cầu học sinh lên trình bày
File đính kèm:
- sang_kien_kinh_nghiem_dinh_huong_phat_trien_nang_luc_lich_su.doc