Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp giúp giáo viên giáo dục và rèn kĩ năng sống cho học sinh tiểu học

PHẦN 1: TÓM TẮT SÁNG KIẾN

      “Mục tiêu của giáo dục là đào tạo con người Việt Nam phát triển toàn diện có đạo đức, tri thức, sức khoẻ, thẩm mĩ và nghề nghiệp, trung thành với lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; hình thành và bồi dưỡng nhân cách, phẩm chất năng lực của công dân, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc” (Luật Giáo dục - 2005).

       Bậc học tiểu học là bậc học nền tảng tạo cơ sở cho HS phát triển học tiếp các bậc học tiếp theo, vì vậy bên cạnh việc trang bị cho học sinh những vốn kiến thức kĩ năng cơ bản trong học tập, lao động còn cần phải chú ý đến việc rèn kĩ năng sống cho học sinh, dạy học sinh cách “làm người”, để học sinh có thêm vốn kinh nghiệm thích ứng với môi trường mới, yêu cầu mới.

       Việc giáo dục kĩ năng sống cho học sinh là rất cần thiết phù hợp với mục tiêu giáo dục, nhằm góp phần đào tạo “con người mới” với đầy đủ các mặt “đức, trí, thể, mĩ” để học sinh được phát triển toàn diện đáp ứng những yêu cầu mới của xã hội.

        Rèn kĩ năng sống cho học sinh giúp cho học sinh thích ứng được với môi trường xã hội, tự giải quyết được một số vấn đề thiết thực trong cuộc sống như vấn đề sức khoẻ, môi trường, tệ nạn xã hội,... để các em có thể tự tin, chủ động không bị quá phụ thuộc vào người lớn mà vẫn có thể tự bảo vệ mình, tự đem lại lợi ích chính đáng, điều kiện thuận lợi cho bản thân mình rèn luyện, học tập phấn đấu vươn lên.

         Trong thực tế hiện nay, việc giáo dục và rèn kĩ năng sống cho học sinh trong nhà trường đã được chú ý đến, song nhiều giáo viên còn lúng túng trong việc tổ chức, thực hiện các chương trình hoạt động rèn kĩ năng sống cho học sinh.

doc 45 trang Anh Hoàng 27/05/2023 3000
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp giúp giáo viên giáo dục và rèn kĩ năng sống cho học sinh tiểu học", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp giúp giáo viên giáo dục và rèn kĩ năng sống cho học sinh tiểu học

Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp giúp giáo viên giáo dục và rèn kĩ năng sống cho học sinh tiểu học
THÔNG TIN CHUNG VỀ SÁNG KIẾN
	1. Tên sáng kiến: Một số biện pháp giúp giáo viên giáo dục và rèn kĩ năng sống cho học sinh tiểu học.
	2.  Lĩnh vực áp dụng sáng kiến: Kĩ năng sống của học sinh tiểu học
	3. Tác giả:
	Họ và tên: Nguyễn Thị Xuân Nam (nữ): Nữ
	Ngày/ tháng/năm sinh: 27/ 01/ 1969
	Trình độ chuyên môn: Đại học Quản lý Giáo dục
	Chức vụ, đơn vị công tác: : Phó hiệu trưởng; Trường tiểu học Ninh Thành
	Điện thoại: 0916076011
	5. Chủ đầu tư tạo ra sáng kiến:
	6. Đơn vị áp dụng sáng kiến lần đầu : Trường Tiểu học Ninh Thành
 Địa chỉ: Xã Ninh Thành, huyện Ninh Giang, tỉnh Hải Dương.
 Điện thoại: 03203760669
	7. Các điều kiện cần thiết để áp dụng SK: 
	- Phải có trường, lớp học theo điều lệ trường Tiểu học.
- Các loại tài liệu tham khảo.
- Phương tiện, trang thiết bị dạy học.
- Sự phối kết hợp của các giáo viên trong trường
	8. Thời gian áp dụng sáng kiến lần đầu: 
	Năm học 2013-2014 đến năm học 2014-2015
 TÁC GIẢ 
 Nguyễn Thị Xuân
XÁC NHẬN CỦA CƠ QUAN ĐƠN VỊ ÁP DỤNG SÁNG KIẾN
PHẦN 1: TÓM TẮT SÁNG KIẾN
 “Mục tiêu của giáo dục là đào tạo con người Việt Nam phát triển toàn diện có đạo đức, tri thức, sức khoẻ, thẩm mĩ và nghề nghiệp, trung thành với lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; hình thành và bồi dưỡng nhân cách, phẩm chất năng lực của công dân, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc” (Luật Giáo dục - 2005).
 Bậc học tiểu học là bậc học nền tảng tạo cơ sở cho HS phát triển học tiếp các bậc học tiếp theo, vì vậy bên cạnh việc trang bị cho học sinh những vốn kiến thức kĩ năng cơ bản trong học tập, lao động còn cần phải chú ý đến việc rèn kĩ năng sống cho học sinh, dạy học sinh cách “làm người”, để học sinh có thêm vốn kinh nghiệm thích ứng với môi trường mới, yêu cầu mới.
 Việc giáo dục kĩ năng sống cho học sinh là rất cần thiết phù hợp với mục tiêu giáo dục, nhằm góp phần đào tạo “con người mới” với đầy đủ các mặt “đức, trí, thể, mĩ” để học sinh được phát triển toàn diện đáp ứng những yêu cầu mới của xã hội.
 Rèn kĩ năng sống cho học sinh giúp cho học sinh thích ứng được với môi trường xã hội, tự giải quyết được một số vấn đề thiết thực trong cuộc sống như vấn đề sức khoẻ, môi trường, tệ nạn xã hội,... để các em có thể tự tin, chủ động không bị quá phụ thuộc vào người lớn mà vẫn có thể tự bảo vệ mình, tự đem lại lợi ích chính đáng, điều kiện thuận lợi cho bản thân mình rèn luyện, học tập phấn đấu vươn lên.
 Trong thực tế hiện nay, việc giáo dục và rèn kĩ năng sống cho học sinh trong nhà trường đã được chú ý đến, song nhiều giáo viên còn lúng túng trong việc tổ chức, thực hiện các chương trình hoạt động rèn kĩ năng sống cho học sinh.
 Với ý nghĩa và tầm quan trọng của việc giáo dục và rèn kĩ năng sống cho học sinh, bản thân đã nghiên cứu đề tài: “Một số biện pháp giúp giáo viên giáo dục và rèn kĩ năng sống cho học sinh tiểu học”.
 Đề tài này đã nêu được một số biện pháp giúp giáo viên rèn kĩ năng sống cho học sinh, cụ thể:
1. Giúp giáo viên nhận thức về việc dạy học sinh kỹ năng sống. 
2. Giúp giáo viên gần gũi và tạo mối thân thiện với học sinh.
3. Giúp GV giáo dục và rèn KNS hiệu quả qua việc tích hợp vào các môn học.
	 4. Rèn KNS hiệu quả qua các tiết sinh hoạt lớp, hoạt động giáo dục, vui chơi.
5. Xây dựng kế hoạch giáo dục KNS cho HSTH thông qua chương trình dạy giáo dục KNS.
6. Tạo môi trường giúp giáo viên thực hiện nhiệm vụ rèn KNS cho HS.
7. Động viên, khen thưởng. 
8. Giáo viên tuyên truyền các bậc cha mẹ thực hiện dạy các em KNS cơ bản.
Bản thân đã nghiên cứu thực hiện và áp dụng các biện pháp đó ở trường Tiểu học tôi đang công tác từ năm trước và đạt kết quả khả quan: GV và phụ huynh HS đã nắm được rõ tầm quan trọng của việ rèn KNS cho học sinh. Học sinh có KNS tốt hơn: thích ứng được với môi trường xã hội, tự giải quyết được một số vấn đề thiết thực trong cuộc sống như vấn đề về sức khỏe, môi trường, tệ nạn xã hội,các em có thể tự tin, chủ động không bị quá phụ thuộc vào người lớn mà vẫn có thể tự bảo vệ mình, tự đem lại lợi ích chính đáng, điều kiện thuận lợi cho bản thân mình rèn luyện, học tập phấn đấu vươn lên đáp ứng được phong trào thi đua “Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực.”
Với các biện pháp này, tất cả giáo viên và người quản lý trường tiểu học có khả năng áp dụng để giáo dục và rèn KNS cho học sinh. Ở biện pháp 8, cha mẹ học sinh có thể áp dụng để rèn kỹ năng sống cho con em mình.
 Trong quá trình nghiên cứu để thực hiện đề tài, bản thân được sự giúp đỡ nhiệt tình của Hiệu trưởng và sự hỗ trợ của các GV và phụ huynh HS trong nhà trường nhưng không tránh khỏi những thiếu sót. Kính mong quý thầy, cô cùng tất cả các đồng nghiệp đóng góp ý kiến để cho đề tài được hoàn thiện hơn.
PHẦN 2: MÔ TẢ SÁNG KIẾN
	1. HOÀN CẢNH NẢY SINH SÁNG KIẾN:
	1.1. Lí do chọn đề tài:
 Việc giáo dục kĩ năng sống cho con người ngay từ khi còn nhỏ là hoàn toàn cần thiết, giúp hình thành những thói quen tốt ăn sâu vào tiềm thức, chi phối lối sống của trẻ, song hành với các em trong suốt quá trình hình thành và phát triển nhân cách. Việc rèn kĩ năng sống cho học sinh đòi hỏi thường xuyên của công tác giáo dục đồng thời cũng là đòi hỏi cấp thiết của việc hình thành nhân cách trong công tác giáo dục hiện nay. Giáo dục trong nhà trường luôn là vấn đề cần được quan tâm thì việc rèn kĩ năng sống cho học sinh cũng không kém quan trọng. Bằng nhiều hình thức, nhiều con đường, trong đó việc rèn kĩ năng sống chiếm một vị trí quan trọng. Qua việc rèn kĩ năng sống sẽ trang bị tri thức, hành vi cho trẻ. Đồng thời nó định hướng cho học sinh tiểu học rèn luyện hành vi và thói quen ứng xử tốt. Trong sự phát triển nhân cách của học sinh, việc rèn luyện kĩ năng sống là đảm bảo cho học sinh có được bản lĩnh rõ ràng về nhân cách toàn diện. Nếu không rèn kĩ năng sống thì không những sự ứng xử trong các tình huống sẽ phức tạp, gặp khó khăn, thậm chí mắc phải sai lầm, mà việc hình thành nhân cách toàn diện của trẻ bị hạn chế, phiến diện, việc xây dựng những thói quen hành vi dễ rơi vào chủ nghĩa hình thức máy móc, lí trí và tình cảm không thống nhất với nhau đó là lời nói không đi đôi với việc làm thì dẫn đến hiện tượng lệch lạc về nhân cách.
Kĩ năng sống là một trong những khái niệm được nhắc đến nhiều trong thời đại ngày nay. Có nhiều quan niệm về kĩ năng sống: 
+ Kĩ năng sống là năng lực ứng xử tích cực của mỗi người đối với tự nhiên xã hội và chính mình.
+ KNS là khả năng tâm lí XH của con người có thể ứng phó với những thách thức trong cuộc sống, giải quyết các tình huống và giao tiếp có hiệu quả
KNS được hình thành theo một quá trình, hình thành một cách tự nhiên qua những va chạm, những trải nghiệm trong cuộc sống và qua giáo dục mà có. Có nhiều nhóm KNS như: nhóm kĩ năng nhận thức, nhóm kĩ năng xã hội và nhóm kĩ năng quản lí bản thân...Dù là kĩ năng nào cũng đều rất quan trọng và cần thiết với mỗi con người. Cho nên, giáo dục KNS cho học sinh có một tầm rất quan trọng. 
 Ở bậc tiểu học, các môn học vừa cung cấp cho học sinh những kiến thức ban đầu về Toán học, Khoa học và Nhân văn, vừa cung cấp cho học sinh những tri thức sơ đẳng về các chuẩn mực hành vi xã hội chủ nghĩa gắn với những kinh nghiệm đạo đức, để từ đó giúp học sinh hình thành kĩ năng sống, biết phân biệt đúng sai làm theo cái đúng, ủng hộ cái đúng, đấu tranh với những biểu hiện sai trái, xấu xa, thôi thúc các em hành động theo chuẩn mực đạo đức và thói quen 
đạo đức chính vì vậy việc rèn kĩ năng sống ở bậc tiểu học là một nhiệm vụ quan trọng mà người người làm công tác giáo dục cần quan tâm.
Từ nhiều năm nay, Bộ Giáo dục - Đào tạo chủ trương dạy kĩ năng sống là một trong những tiêu chí đánh giá “Trường học thân thiện - học sinh tích cực.” Trên tinh thần đó, bản thân nhận thấy rằng: chính ở dưới mái trường các em học được nhiều điều hay, lẽ phải. Và nhà trường trở nên là ngôi nhà thân thiện, học sinh tích cực học tập để thành người tài xây dựng đất nước, có khả năng hội nhập cao, từng bước trở thành công dân toàn cầu. Đây cũng là một nhiệm vụ quan trọng đối với các thầy cô giáo. Với học sinh tiểu học, đây là giai đoạn đầu tiên hình thành nhân cách cho các em, giúp các em có một kĩ năng sống tốt cho tương lai sau này.
 Hiện nay, việc rèn kĩ năng sống của các em ở trường tiểu học còn nhiều hạn chế. Việc rèn kĩ năng sống cho học sinh chưa có nét chuyển biến, nguyên do chính là trong tư tưởng giáo viên, phụ huynh chỉ chú trọng đến việc dạy kiến thức, việc rèn kĩ năng sống cho học sinh còn chiếu lệ, giáo viên chưa nhận thức được tầm quan trọng của việc rèn kĩ năng sống cho học sinh lớp mình đang dạy chỉ luôn chú trọng đến việc làm tính tốt, đọc-viết tốt, Về phía học sinh, các em hay “nói trước quên sau” và chưa có khả năng vận dụng những điều đã học áp dụng vào thực tế, với học sinh tiểu học, tâm lý độ tuổi cho thấy các em rất hiếu động các em có nhu cầu hỏi đáp, không muốn bị áp đặt. Mặt khác, các em một mực rất tin vào lời nói của thầy cô giáo, thầy cô bảo đọc, bảo chép thì cứ đọc cứ chép và quá trình ấy cứ lặp đi lặp lại dần dần dẫn đến thói quen. Nếu nói rằng, thầy cô giáo không quan tâm đến việc dạy rèn kĩ năng sống là không đúng; nhưng việc rèn kĩ năng sống của nhiều giáo viên rất hạn chế nhất là việc lồng ghép vào tất cả các môn học cũng như lồng ghép vào các hoạt động ngoại khóa giáo viên còn mơ hồ về việc rèn kĩ năng sống cho học sinh. Để nâng cao kĩ năng sống cho học sinh tiểu học, với cương vị là người quản lí nhà trường, bản thân hết sức băn khoăn và trăn trở, nhiều đêm luôn vang trong đầu câu hỏi: Làm thế nào để nâng cao KNS cho học sinh? Làm thế nào để học sinh biết cách vận dụng kĩ năng sống vào trong cuộc sống hằng ngày? Với mong muốn góp phần vào việc luận giải những vấn đề nói trên, bản thân chọn đề tài: “ Một số biện pháp giúp giáo viên giáo dục và rèn kĩ năng sống cho học Tiểu học”. Vấn đề mà chắc hẳn không chỉ riêng bản thân mà rất nhiều đồng nghiệp khác quan tâm suy nghĩ là làm sao học sinh của trường mình có những kĩ năng sống tốt cho tương lai sau này, trở thành những con người tốt, có ích cho xã hội. Đây cũng là một vấn đề mà phụ huynh và xã hội hiện nay hết sức quan tâm.
	1.2. 	Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
	1.2.1. Mục đích nghiên cứu
 Tìm một số biện pháp rèn kĩ năng sống cho học sinh thông qua các môn học và hoạt động ngoài giờ lên lớp.
 Giúp học sinh ý thức được giá trị của bản thân trong mối quan hệ xã hội; giúp học sinh hiểu biết về thể chất, tinh thần của bản thân mình; có hành vi, thói quen ứng xử có văn hóa, hiểu biết và chấp hành pháp luật
 Giúp HS có đủ khả năng tự thích ứng với môi trường xung quanh, tự chủ, độc lập, tự tin khi giải quyết công việc, đem lại cho các em vốn tự tin ban đầu để trang bị cho các em những kĩ năng cần thiết làm hành trang bước vào đời. 
 1.2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
 Tìm hiểu những cơ cở lí luận, cơ sở thực tiễn, những thận lợi và khó khăn 
của việc rèn kĩ năng sống cho học sinh.
 Tìm hiểu thực trạng và nguyên nhân dẫn đến học sinh thiếu kĩ năng sống. 
 Đưa ra một số biện pháp giúp giáo viên rèn kĩ năng sống cho học sinh thông qua các môn học và hoạt động ngoài giờ lên lớp.
 Rút ra kết luận và bài học kinh nghiệm sau khi áp dụng đề tài.
 1.3. Đối tượng, thời gian, phạm vi nghiên cứu:
 1.3.1. Đối tượng
Các biện pháp rèn kĩ năng sống cho học sinh trường tiểu học nơi tôi đang công tác thông qua các môn học và hoạt động ngoài giờ lên lớp.
 1.3.2. Thời gian
       Năm học 2011- 2012: Giai đoạn nghiên cứu đề tài và áp dụng lần đầu.         Từ năm học 2012- 2013 đến 2013-2014: Giai đoạn tiếp tục nghiên cứu đề tài và áp dụng.
       Từ tháng 01/2014 đến tháng 3/2014: Giai đoạn soạn thảo và viết đề tài.
 Từ ngày 9/9/2013 đến 29/9/2013: Lập đề cương.
 Từ ngày 01/10/2013 đến 19/5/2014: Nghiên cứu và áp dụng thử các lớp A trong mỗi khối.
 Từ ngày 22/8/2014 đến 15/01/2015: Áp dụng rộng rãi toàn trường.
 Từ ngày 16/1/2015 đến 15/02/2015: Cùng giáo viên trong trường rút ra bài học.
 Từ ngày 16/02/2015 đến 06/3/2015: Hoàn tất đề tài.
 1.3.3. Phạm vi
 Các hoạt động ở trường của GV và HS: tiết học hàng ngày, các tiết sinh hoạt, hoạt động ngoại khoá, trong các giờ ra chơiở trường tiểu học nơi tôi đang công tác.
 1.4. Phương pháp nghiên cứu
 Đề tài sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu lý thuyết và thực 
tiễn bao gồm:
	1.4.1. Nhóm phương pháp nghiên cứu lý luận: Sử dụng các phương pháp 
phân tích, tổng hợp, hệ thống hoá, khái quát hoá hệ thống lý luận của đề tài. 
Tìm đọc tài liệu có liên quan đến việc rèn kĩ năng sống cho học sinh.
 1.4.2. Nghiên cứu thực tế:
 1.4.2.1. Khảo sát thực tế học sinh
 1.4.2.2. Phương pháp quan sát
 Quan sát hoạt động học tập (Xem các em có tích cực tham gia vào các hoạt động hay không? Có kĩ năng làm bài hay không?...)
 Quan sát hoạt động vui chơi (Thích trò chơi nào, thái độ trung thực hay gian lận khi tham gia trò chơi).
 Quan sát hoạt động giao tiếp với mọi người xung quanh (Thái độ khi nói chuyện với bạn bè, cách xưng hô với thầy cô giáo, với người lớn tuổi, hành vi tốt xấu với mọi người).
 1.4.2.3. Sử dụng phương pháp thực hành: Giáo dục kĩ năng sống cho học sinh thông qua các hoạt động để học sinh tự cảm nhận, đánh giá, nhận xét qua các hành vi và từ đó hình thành các kĩ năng; thực hiện sự phối hợp trong và ngoài nhà trường, làm tốt công tác xã hội hóa trong việc giáo dục kĩ năng sống.
 1.4.2.4. Phương pháp phân tích và tổng hợp kinh nghiệm giáo dục
 Phân tích các nguyên nhân dẫn đến học sinh thiếu kĩ năng sống.
 Tổng hợp các biện pháp giáo dục của giáo viên chủ nhiệm trong nhà trường và gia đình.
	1.5. Những đóng góp mới của đề tài:
	1.5.1. Về lý luận: 
	Hệ thống hóa được các vấn đề lý luận cơ bản về giáo dục và rèn KNS cho học sinh tiểu học.
	Xây dựng được nhiệm vụ, nội dung giáo dục và rèn KNS cho học sinh tiểu học, chỉ ra được rèn KNGT là nhiệm vụ quan trọng trong mọi nhà trường Tiểu học, góp phần tạo nên hệ giá trị sống tích cực của HS
	1.5.2. Về thực tiễn:
	Đánh giá thực trạng giáo dục KNS trong nhà trường Tiểu học và xác định nguyên nhân, hệ quả của nó.
	Đề xuất được các biện pháp giáo dục KNS cho HS tiểu học 
	Kết quả nghiên cứu của đề tài cung cấp thêm cho các giáo viên của trường Tiểu học tư liệu giáo dục KNS cho HS tiểu học. 
	2. CƠ SỞ LÍ LUẬN CỦA VẤN ĐỀ
	2.1. Lịch sử nghiên cứu của vấn đề:
	Ngay từ những năm 60 của thế kỷ 20, tổ chức UNESCO đã vạch rõ ba thành tố của học vấn, đó là : kiến thức, kỹ năng và thái độ, trong đó thái độ và kỹ năng đóng vai trò then chốt Chính thái độ tích cực, năng động, dấn thân,... và những kỹ năng cần thiết trong học tập và làm việc, trong quan hệ giao tiếp, trong xử trí, ứng phó trước những đòi hỏi, thử thách của cuộc sống đã chủ yếu giúp cho người học tự tin để vững bước tới một tương lai có định hướng. Riêng vềgiáo dục kỹ năng sống tuy chỉ mới xuất hiện từ những năm 1990 của thế kỷ trước song đã nhanh chóng lan rộng ra khắp thế giới. Và có nơi, giáo dục kỹ năng sống không chỉ là một sinh hoạt ngoại khóa mà còn là một môn học chính qui ở nhà trường. 
	Ở Việt Nam, dù giáo dục kỹ năng sống được du nhập vào ngay sau đó nhưng triết lý và phương pháp giáo dục kỹ năng sống ít nhiều hãy còn lạ lẫm đối với xã hội ta nên chưa được sự quan tâm đúng mức. Nhưng đến những năm gần đây Việt Nam, kỹ năng sống đang được quan tâm, tuy nhiên trong nhà trường chủ yếu học sinh chỉ được dạy kỹ năng học tập và chính trị, còn việc giáo dục kỹ năng sống chưa được quan tâm nhiều. Theo chuyên viên tâm lý Huỳnh Văn Sơn, cố vấn Trung tâm chăm sóc tinh thần Ý tưởng Việt: "hiện nay, thuật ngữ kỹ năng sống được sử dụng khá phổ biến nhưng có phần bị "lạm dụng" khi chính những người huấn luyện hay tổ chức và các bậc cha mẹ cũng chưa thật hiểu gì về nó". Theo Vụ trưởng Vụ Công tác Học sinh Sinh viên (Bộ Giáo Dục và Đào tạo) Phùng Khắc Bình, trong tương lai và về lâu dài cần xây dựng chương trình môn học giáo dục KNS cho học sinh lớp 1 đến lớp 12.
	2.2. Một số khái niệm về kĩ năng sống: 
	Tổ chức Y tế Thế giới WHO định nghĩa kỹ năng sống là "khả năng thích nghi và hành vi tích cực cho phép cá nhân có khả năng đối phó hiệu quả với nhu cầu và thách thức của cuộc sống hàng ngày". Trong giáo dục tiểu học và giáo dục trung học, kỹ năng sống có thể là một tập hợp những khả năng được rèn luyện và đáp ứng các nhu cầu cụ thể của cuộc sống hiện đại hóa; ví dụ cuộc sống bao gồm quản lý tài chính (cá nhân), chuẩn bị thức ăn, vệ sinh, cách diễn đạt, và kỹ năng tổ chức. Đôi khi kỹ năng sống, nhưng không phải luôn luôn, khác biệt với các kỹ năng nghiệp vụ (trong nghề nghiệp).
	Cũng theo WHO, kỹ năng sống được chia thành 2 loại là kỹ năng tâm lý xã hội và kỹ năng cá nhân, lĩnh hội và tư duy, với 10 yếu tố như: tự nhận thức, tư duy sáng tạo, giải quyết vấn đề, kỹ năng giao tiếp ứng xử với người khác, ứng phó với các tình huống căng thẳng và cảm xúc, biết cảm thông, tư duy bình luận và phê phán, cách quyết định, giao tiếp hiệu quả và cách thương thuyết.
	Kĩ năng sống là những kĩ năng tâm lý – xã hội cơ bản giúp cho cá nhân tồn tại và thích ứng trong cuộc sống, giúp cho cá nhân vững vàng trước cuộc sống có nhiều thách thức nhưng cũng nhiều cơ hội trong thực tạiKĩ năng sống đơn giản là tất cả điều cần thiết chúng ta phải biết để có được khả năng thích ứng với những thay đổi diễn ra hằng ngày trong cuộc sống.
 Nghiên cứu gần đây về sự phát triển của não trẻ cho thấy rằng khả năng giao tiếp với mọi người, khả năng biết tự kiểm soát, thể hiện các cảm giác của mình, biết cách ứng xử phù hợp với các yêu cầu, biết giải quyết các vấn đề cơ bản một cách tự lập có những ảnh hưởng rất quan trọng đối với kết quả học tập của trẻ tại trường.Vì thế, ngày nay trên thế giới rất nhiều trường Tiểu học áp dụng phương pháp học trung tính là phương pháp học tập thông qua các giao tiếp tích cực với những người khác. Ở Việt Nam, để nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện thế hệ trẻ đáp ứng nguồn nhân lực phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, đáp ứng nhu cầu hội nhập quốc tế và nhu cầu phát triển của người học, giáo dục phổ thông đã và đang được đổi mới mạnh mẽ theo bốn trụ cột của giáo dục thế kỉ XXI mà thực chất là cách tiếp cận kĩ năng sống đó là: học để biết, học để làm, học để tự khẳng định mình và học để cùng chung sống.	
	 2.3. Cơ sở thực tiễn
 Thực hiện nghị quyết 40/2008/CT-BGDĐT ngày 22 tháng 7 năm 2008 của Bộ giáo dục và đào tạo về việc phát động phong trào thi đua: "Xây dựng trường học thân thiện học sinh tích cực" , trong đó nội dung: Rèn luyện kĩ 
năng sống cho học sinh phù hợp với lứa tuổi của học sinh.
Căn cứ nhiệm vụ năm học 2014 - 2015 của ngành, của trường về việc chú trọng: Rèn luyện kĩ năng sống cho học sinh.
 Rèn luyện kĩ năng sống cho học sinh là một việc làm hết sức cần thiết của xã hội, các em không chỉ biết học giỏi về kiến thức mà còn phải được tôi luyện những kĩ năng sống qua đó tạo cho các em một môi trường lành mạnh, an toàn, tích cực, vui vẻ để trang bị cho các em vốn kiến thức, kĩ năng, giá trị sống để bước vào đời tự tin hơn.
 Trong giai đoạn hiện nay, Việt Nam đang hội nhập với các nước trên thế giới từng bước phát triển vươn lên, những mặt tốt của xã hội được phát triển mạnh song những vấn đề mặt trái của xã hội cũng xuất hiện nhiều ảnh hưởng đến sự tồn tại, phát triển của mỗi tập thể, cá nhân trong đó có một bộ phận là trẻ em. Theo guồng quay của xã hội, một số gia đình bố mẹ chỉ quan tâm, mải lo đến việc làm kinh tế mà quên mất gia đình là chiếc nôi của trẻ, quên đi việc cần tạo một môi trường gia đình đầm ấm, người lớn gương mẫu, quan tâm dạy dỗ trẻ; Không những thế còn có những gia đình cha mẹ nghiện ngập, cờ bạc, rượu chè,...ảnh hưởng vô cùng lớn tới tâm hồn trẻ, tới sự phát triển nhân cách của trẻ. Một số gia đình hoàn toàn phó mặc việc dạy dỗ trẻ cho nhà trường. Cũng có những gia đình có điều kiện kinh tế, quá chiều chuộng con dẫn đến trẻ thiếu sự sáng tạo, luôn ỷ lại, phụ thuộc vào người lớn; mỗi khi gặp các tình huống trong thực tế lúng túng không biết xử lý thế nào, hạn chế trong việc tự bảo vệ bản thân mình; hoặc có trẻ được chiều chỉ làm theo ý của mình chứ không làm theo ý người khác. Bên cạnh việc học các môn văn hoá nếu trẻ được chú ý giáo dục đạo đức, được rèn kĩ năng sống biết phân biệt cái tốt, cái xấu, biết từ chối cám dỗ, biết ứng xử, biết tự quyết định đúng trong một số tình huống thì chính trẻ sẽ là người tác động tốt đến gia đình, xã hội.
Những năm gần đây, nhiều trẻ em rất thiếu kĩ năng làm việc nhà, kĩ năng tự phục vụ, kĩ năng giao tiếp với ông bà, cha mẹ. Nhiều em không tự dọn dẹp phòng ở của chính mình, không giúp đỡ bố mẹ bất kì việc gì ngoài việc học. Phụ huynh vì bận nhiều công việc nên ít quan tâm giúp đỡ con em trong các hoạt động cần thiết, làm cho các em rất rụt rè thiếu tự tin khi giao tiếp họăc tham gia các hoạt động bởi các em bị cuốn hút theo các trò chơi điện tử và hệ thống ảo trên hệ thống Internet. Đây là những trò chơi làm cho các em xa lánh với môi trường sống thực tế và thiếu sự tương tác giữa con người với con người, kĩ năng xã hội của học sinh ngày càng kém. Điều này dẫn đến tình trạng học sinh trở nên ích kỉ, không quan tâm đến cộng đồng. Câu hỏi mà chúng ta thường đặt ra cho học sinh tiểu học là ngoài những kiến thức phổ thông về Toán, Khoa học và Nhân văn, học sinh cần học điều gì để giúp các em hội nhập với xã hội, trở thành công dân có ích cho cộng đồng. Vì thế đây cũng là nỗi lo lắng, đặt ra cho những người làm công tác giáo dục những suy nghĩ, trăn trở.
	3. THỰC TRẠNG VÀ NGUYÊN NHÂN DẪN ĐẾN KĨ NĂNG SỐNG CỦA HỌC SINH CHƯA TỐT
	3.1. Thực trạng
 Học tập là một nhu cầu thường trực của con người trong mọi thời đại. Học tập không chỉ dừng lại ở các tri thức khoa học thuần túy mà còn được hiểu là mọi tri thức về thế giới trong đó có cả những mối quan hệ, cách thức ứng xử với môi trường xung quanh. Kĩ năng sống là một trong những vấn đề quan trọng đối với mỗi cá nhân trong quá trình tồn tại và phát triển. Chương trình học hiện nay đang gặp phải nhiều chỉ trích do quá nặng nề về kiến thức trong khi những tri thức vận dụng cho đời sống hàng ngày bị thiếu vắng. Hơn nữa, người học đang chịu nhiều áp lực về học tập khiến cho không còn nhiều thời gian cho các hoạt động ngoại khóa, hoạt động xã hội. Điều này dẫn đến sự “xung đột” giữa nhận thức, thái độ và hành vi với những vấn đề xảy ra trong cuộc sống.
 Mặc dù ở một số môn học, các hoạt động ngoại khóa, giáo dục kĩ năng sống đã được đề cập đến. Tuy nhiên, do nội dung, phương pháp, cách thức truyền tải chưa phù hợp với tâm sinh lí của đối tượng nên hiệu quả lồng ghép còn chưa cao. 
 Qua thực tế giảng dạy và làm làm công tác quản lí ở trường tiểu học, bản thân thấy kĩ năng sống của học sinh chưa cao. Chỉ một số học sinh có hành vi, 
thói quen, kĩ năng tốt. Còn phần lớn các em có nhận xét, đánh giá về sự việc nhưng chưa có thái độ và cách ứng xử, cách xưng hô chuẩn mực. Học sinh thể hiện kĩ năng còn đại khái, chưa mạnh dạn thể hiện kĩ năng của bản thân. Các em còn ngại nói, ngại viết, khả năng tự học, tự tìm tòi còn hạn chế.
 Qua tiến hành khảo sát ( lần 1) đầu năm học với chủ đề “ Kĩ năng của em”; kết quả như sau:
	Bảng 1:
Lớp
Tổng số học sinh
Kĩ năng tốt
Có hình thành kĩ năng
Kĩ năng chưa tốt
SL
%
SL
%
SL
%
1A
25
2
8,0
10
40,0
13
52,0
2A
30
4
13,3
10
33,3
16
53,4
3A
20
3
15,0
7
35,0
10
50,0
4A
20
4
20,0
6
30,0
10
50,0
5A
20
4
20,0
7
35,0
9
45,0
Tổng
115
17
14,8
40
34,8
58
50,4 
	 Bảng 2:
Lớp
Tổng số học sinh
Thực hành thảo luận nhóm
Biết cách lắng nghe, hợp tác
Chưa biết cách lắng nghe, hay tách ra khỏi nhóm
SL
%
SL
%
1A
25
9
36,0
16
64,0
2A
30
12
40,0
18
60,0
3A
20
8
40,0
12
60,0
4A
20
8
40,0
12
60,0
5A
20
9
45,0
11
55,0
Tổng
115
46
40,0
69
60,0
Bảng 3:
Lớp
Tổng số học sinh
Ứng xử tình huống trong chơi trò chơi tập thể
Biết cách ứng xử hài hòa, phù hợp khi chơi
Hay cãi nhau, xô đẩy bạn khi chơi
SL
%
SL
%
1A
25
9
36,0
16
64,0
2A
30
11
36,7
19
63,3
3A
20
7
35,0
13
65,0
4A
20
7
35,0
13
65,0
5A
20
6
30,0
14
70,0
Tổng
115
40
34,8
75
65,2
	Kết quả trên cho thấy, số học sinh có kĩ năng tốt còn ít và số học sinh có kĩ năng chưa tốt còn nhiều. Chính vì vậy mà việc rèn kĩ năng sống cho học sinh là vấn đề cần quan tâm. Muốn làm tốt công tác này chúng ta cần phải làm gì? Nhất là những người làm công tác giáo dục vì nhà trường là nơi tốt nhất để hình thành nhân cách cho học sinh. Đây cũng chính là câu hỏi mà bản thân cần phải tìm tòi nghiên cứu. Từ những thực trạng trên thôi thúc bản thân tìm ra nguyên nhân dẫn đến tình trạng “Học sinh chưa có kĩ năng sống” là do đâu? để từ đó tìm ra biện pháp rèn kĩ năng sống cho học sinh đạt hiệu quả.
	3.2. Nguyên nhân
 Hiện tượng trẻ em ngu ngơ khi phải xử lí những tình huống của cuộc sống thực, thiếu tự tin trong giao tiếp, thiếu bản lĩnh vượt qua khó khăn, thiếu sáng kiến và dễ nản chí ngày càng nhiều. Nguyên nhân do đâu? Phải khẳng định rằng, trước hết do giáo dục. Nhiều vấn đề của xã hội hiện đại tác động đến trẻ chưa được cập nhật, bổ sung vào chương trình giáo dục nhà trường. Việc định hướng sai các giá trị là nguyên nhân gây ra những hiện tượng đáng tiếc trong ứng xử của trẻ. Phương pháp giáo dục nhồi nhét, lí thuyết xuông, không tạo được cho trẻ khả năng tư duy, óc phân tích, suy sét, phán đoán, không tạo cơ hội cho trẻ trải nghiệm những vấn đề thực trong cuộc sống hiện đạiQua nhiều năm thực tế giảng dạy ở trường, bản thân nhận thấy kĩ năng sống học sinh chưa tốt là do những nguyên nhân sau:
 Giáo viên và người lớn chưa thật gần gũi, thân thiện với học sinh. 
 Việc rèn kĩ năng sống qua việc tích hợp vào các môn học còn hạn chế.
 Rèn kĩ năng sống qua các tiết sinh hoạt lớp, hoạt động giáo dục, vui chơi còn chưa sâu sát.
 Giáo viên khuyến khích động viên khen thưởng học sinh còn ít.
 Còn có giáo viên và bộ phận không nhỏ phụ huynh chưa thực sự đã có kĩ năng sống tốt nên việc làm "gương" còn hạn chế.
 Công tác tuyên truyền tới các bậc cha mẹ thực hiện dạy các em các kĩ năng sống cơ bản chưa nhiều.
 Chính việc thiếu hụt nghiêm trọng các KNS do sự hạn chế giáo dục của gia đình và nhà trường, sự phức tạp của xã hội hiện đại là nguyên nhân trực tiếp khiến học sinh gặp khó khăn trong xử với tình huống thực của cuộc sống.
 3.3. Những thuận lợi, khó khăn khi rèn kĩ năng sống cho học sinh
Trong quá trình rèn kĩ năng sống cho trẻ nhằm thực hiện nội dung phong trào “Xây dựng trường học thân thiện - học sinh tích cực”, bản thân đã gặp những thuận lợi và khó khăn sau:
	 3.3.1. Thuận lợi 
Bộ Giáo dục và Đào tạo đã phát động phong trào “Xây dựng trường học 
thân thiện - học sinh tích cực” với những kế hoạch nhất quán từ Trung Ương đến địa phương, Phòng Giáo dục và Đào tạo cũng đã có kế hoạch từng năm học với những biện pháp cụ thể để rèn kĩ năng sống cho học sinh một cách chung nhất cho các bậc học, đây chính là những định hướng giúp cho các nhà trường xây dựng kế hoạch Giáo dục KNS cho HS và giúp giáo viên thực hiện như: Rèn luyện kĩ năng ứng xử hợp lý với các tình huống trong cuộc sống, thói quen và kĩ năng làm việc, sinh hoạt theo nhóm; rèn luyện sức khỏe và ý thức bảo vệ sức khỏe, kĩ năng phòng, chống tai nạn giao thông, đuối nước và các tai nạn thương tích khác; rèn luyện kĩ năng ứng xử văn hóa, chung sống hòa bình, phòng ngừa bạo lực và các tệ nạn xã hội.
Trường học nơi tôi công tác là ngôi trường đã đạt chuẩn Quốc gia nên thuận lợi trong việc thực hiện nội dung xây dựng môi trường giáo dục sạch - đẹp- an toàn cho trẻ.
Bên cạnh đó, bản thân nhận được một tập thể CBGV đoàn kết, học sinh khá ngoan và biết vâng lời, các em gần gũi với thầy cô giáo. Ngoài ra lãnh đạo địa phương, phụ huynh luôn theo sát, quan tâm tới sự nghiệp giáo dục. Chính vì thế bản thân luôn cố gắng tìm ra các biện pháp làm thế nào giúp GV rèn cho các em kĩ năng sống, giúp các em có một niềm tin, phát triển một cách toàn diện để trở thành con người năng động, sáng tạo phù hợp với một xã hội hiện đại đang phát triển. 
3.3.2. Khó khăn
3.3.2.1. Đối với lãnh đạo nhà trường:
Không phải là người trực tiếp thường xuyên rèn kĩ năng sống cho HS. 
Chưa có nhiều thời gian cho việc giám sát, kiểm tra, đôn đốc, tư vấn cho giáo viên, phụ huynh rèn KNS cho HS. 
3.3.2.2. Đối với giáo viên 
Trong thực tế hiện nay, việc nhận thức tầm quan trọng, cần thiết rèn kĩ năng sống cho học sinh ở một số giáo viên còn hạn chế. Qua dùng phiếu thăm dò, khảo sát thực tế cho thấy một số giáo viên lúng túng cả về nội dung, biện pháp rèn kĩ năng sống cho học sinh. Nhận thức của nhiều giáo viên còn mơ hồ, chưa rõ, chưa đầy đủ rèn kĩ năng sống cho học sinh là rèn những kĩ năng gì; vì nhận thức chưa đủ, chưa rõ nên không thể tìm ra được biện pháp, hình thức tổ chức hữu hiệu để rèn kĩ năng sống cho học sinh. 
Phong trào “Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực” tập trung nhiều nội dung chung cho các bậc học, giáo viên chưa hiểu nhiều về nội dung phải dạy trẻ theo từng khối lớp những kĩ năng sống cơ bản nào, chưa biết vận dụng từ những kế hoạch định hướng chung để rèn luyện KNS cho HS. 
 Đa số giáo viên lớn tuổi có nhiều kinh nghiệm nhưng việc đổi mới phương pháp giảng dạy nhằm khuyến khích sự chuyên cần, tích cực, chủ động, 
sáng tạo và ý thức vươn lên, rèn luyện khả năng tự học của học sinh còn gặp 
nhiều khó khăn; giáo viên trẻ tuổi ít hơn, năng động, sáng tạo nhưng lại khó trong công tác bồi dưỡng do nhận thức về nghề chưa sâu sắc nên giáo viên mới thường không an tâm công tác. 
3.3.2.3. Đối với học sinh
 Trong các nhà trường ít nhiều vẫn còn có hiện tượng học sinh cãi nhau, chửi nhau, đánh nhau, chưa lễ phép, gây mất đoàn kết trong tập thể lớp, trốn học đi chơi,...
Các em học sinh vừa từ lớp một, hai, ba lên làm quen với môi trường lớp 4, các em khá rụt rè chưa quen với cách học cũng như mạnh dạn bày tỏ ý kiến. Khi phát biểu các em nói không rõ ràng, trả lời trống không, không tròn câu và ít nói lời cảm ơn, xin lỗi với cô, bạn bè. Nhiều em đến trường tỏ ra nói nhiều vì ở nhà các em không có người trò chuyện, chia sẻ ...
3.3.2.4. Đối với phụ huynh học sinh
Về phía các bậc cha mẹ các em 

File đính kèm:

  • docsang_kien_kinh_nghiem_mot_so_bien_phap_giup_giao_vien_giao_d.doc