Sáng kiến kinh nghiệm Một số phương pháp nhằm nâng cao chất lượng giảng dạy phân môn học hát tại trường THCS

  1. Hoàn cảnh nảy sinh sáng kiến

Trong thời kỳ đổi mới và phát triển mọi mặt về kinh tế- văn hoá- chính trị và xã hội hiện nay Đảng và nhà nước ta luôn coi trọng vấn đề Giáo dục con người phát triển toàn diện đặc biệt là thế hệ trẻ. Đây là bước tạo nên sự hình thành và phát triển nhân cách của lớp trẻ Việt Nam. Một trong những môn học có ý nghĩa to lớn và tích cực trong việc hình thành và phát triển nhân cách toàn diện cho học sinh đó là môn âm nhạc. Âm nhạc là loại hình nghệ thuật quan trọng, gắn bó với cuộc sống thường ngày của mỗi con người, phản ánh cuộc sống bằng các hình tượng âm thanh cho con người từ lúc sinh ra cho đến hết cuộc đời.

Mục đích của giáo dục âm nhạc trong nhà trường THCS là vô cùng quan trọng, bởi đã đưa âm nhạc vào đời sống của học sinh góp phần giáo dục thẩm mỹ, đạo đức lối sống, phát triển trí tuệ, thể chất ở học sinh, khích lệ các em có khả năng phát triển toàn diện để sau này trở thành những con người “Vừa hồng vừa chuyên” xây dựng đất nước đáp ứng yêu cầu đòi hỏi của cách mạng dưới sự lãnh đạo của Đảng và nhà nước ta. Là một giáo viên dạy tại trường THCS, trực tiếp giảng dạy bộ môn âm nhạc thông qua các phân môn: Dạy hát, nghe nhạc, tập đọc nhạc, âm nhạc thường thức, chính vì vậy giáo viên luôn đặt ra câu hỏi: Làm thế nào để học sinh lớp 6 có khả năng ca hát tốt, trình bày chuẩn xác và diễn cảm các bài hát thì quả là rất khó, đòi hỏi người giáo viên phải tự rèn luyện chính mình, phải cải tiến, sáng tạo, áp dụng linh hoạt cho phù hợp với điều kiện giảng dạy và khả năng học tập của từng lớp, từng học sinh:

+ Phải hình thành cho học sinh các kỹ năng cần thiết về ca hát để thể hiện bài hát với sự truyền cảm.

+ Phát triển tai nghe âm nhạc và nhạc cảm trên cơ sở rèn luyện các kỹ năng ca hát ở mức độ phổ thông, thông qua từng kiểu, loại bài hát.

+ Phát triển giọng hát tự nhiên, củng cố và mở rộng âm vực của giọng.

+ Giúp học sinh học thuộc, hát đúng và biết trình bày một cách chủ động, sáng tạo. Chính từ ý nghĩ này giáo viên mạnh dạn đưa ra một kinh nghiệm mang tên: “Một số phương pháp nhằm nâng cao chất lượng dạy phân môn học hát tại trường THCS”.

doc 38 trang Anh Hoàng 27/05/2023 1840
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Một số phương pháp nhằm nâng cao chất lượng giảng dạy phân môn học hát tại trường THCS", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Một số phương pháp nhằm nâng cao chất lượng giảng dạy phân môn học hát tại trường THCS

Sáng kiến kinh nghiệm Một số phương pháp nhằm nâng cao chất lượng giảng dạy phân môn học hát tại trường THCS
UBND TỈNH HẢI DƯƠNG
SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
BẢN MÔ TẢ SÁNG KIẾN
MỘT SỐ PHƯƠNG PHÁP NHẰM NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG GIẢNG DẠY PHÂN MÔN HỌC HÁT TẠI TRƯỜNG THCS
BỘ MÔN: ÂM NHẠC
Năm học 2014 – 2015
PHẦN I
THÔNG TIN CHUNG VỀ SÁNG KIẾN
1. Tên sáng kiến:
MỘT SỐ PHƯƠNG PHÁP NHẰM NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG GIẢNG DẠY PHÂN MÔN HỌC HÁT TẠI TRƯỜNG THCS
2. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến: Học sinh khối lớp 6 trường THCS
3. Tác giả:
Họ và tên: Nguyễn Thị Thúy Nga (nữ)
Sinh ngày: 10 tháng 01 năm 1979
Trình độ chuyên môn: Đại học Âm nhạc
Chức vụ: Giáo viên tổ Ngoại ngữ- Thể dục- Âm nhạc- Mỹ thuật trường THCS Thành Nhân
Điện thoại: 0985615349
5. Đơn vị áp dụng sáng kiến: Trường THCS Thành Nhân
6. Các điều kiện cần thiết để áp dụng sáng kiến:
- Giáo viên: Khi dạy phân môn học hát giáo viên cần xác định rõ mục tiêu và tầm quan trọng của tiết dạy hát, phải đổi mới cách soạn bài, phương pháp dạy phải phù hợp và cách thức tổ chức học sinh hoạt động một cách thành thạo và lô gisch.
- Học sinh: Phải chuẩn bị và tìm hiểu bài ở nhà trước khi đến lớp, trong quá trình học tập cần phải tích cực hoạt động.
7. Thời gian áp dụng sáng kiến: Áp dụng năm học 2013- 2014, tiếp tục áp dụng 2014- 20015.
HỌ TÊN TÁC GIẢ
XÁC NHẬN CỦA NHÀ TRƯỜNG
TÓM TẮT SÁNG KIẾN
Hoàn cảnh nảy sinh sáng kiến
Trong thời kỳ đổi mới và phát triển mọi mặt về kinh tế- văn hoá- chính trị và xã hội hiện nay Đảng và nhà nước ta luôn coi trọng vấn đề Giáo dục con người phát triển toàn diện đặc biệt là thế hệ trẻ. Đây là bước tạo nên sự hình thành và phát triển nhân cách của lớp trẻ Việt Nam. Một trong những môn học có ý nghĩa to lớn và tích cực trong việc hình thành và phát triển nhân cách toàn diện cho học sinh đó là môn âm nhạc. Âm nhạc là loại hình nghệ thuật quan trọng, gắn bó với cuộc sống thường ngày của mỗi con người, phản ánh cuộc sống bằng các hình tượng âm thanh cho con người từ lúc sinh ra cho đến hết cuộc đời.
Mục đích của giáo dục âm nhạc trong nhà trường THCS là vô cùng quan trọng, bởi đã đưa âm nhạc vào đời sống của học sinh góp phần giáo dục thẩm mỹ, đạo đức lối sống, phát triển trí tuệ, thể chất ở học sinh, khích lệ các em có khả năng phát triển toàn diện để sau này trở thành những con người “Vừa hồng vừa chuyên” xây dựng đất nước đáp ứng yêu cầu đòi hỏi của cách mạng dưới sự lãnh đạo của Đảng và nhà nước ta. Là một giáo viên dạy tại trường THCS, trực tiếp giảng dạy bộ môn âm nhạc thông qua các phân môn: Dạy hát, nghe nhạc, tập đọc nhạc, âm nhạc thường thức, chính vì vậy giáo viên luôn đặt ra câu hỏi: Làm thế nào để học sinh lớp 6 có khả năng ca hát tốt, trình bày chuẩn xác và diễn cảm các bài hát thì quả là rất khó, đòi hỏi người giáo viên phải tự rèn luyện chính mình, phải cải tiến, sáng tạo, áp dụng linh hoạt cho phù hợp với điều kiện giảng dạy và khả năng học tập của từng lớp, từng học sinh:
+ Phải hình thành cho học sinh các kỹ năng cần thiết về ca hát để thể hiện bài hát với sự truyền cảm.
+ Phát triển tai nghe âm nhạc và nhạc cảm trên cơ sở rèn luyện các kỹ năng ca hát ở mức độ phổ thông, thông qua từng kiểu, loại bài hát.
+ Phát triển giọng hát tự nhiên, củng cố và mở rộng âm vực của giọng.
+ Giúp học sinh học thuộc, hát đúng và biết trình bày một cách chủ động, sáng tạo. Chính từ ý nghĩ này giáo viên mạnh dạn đưa ra một kinh nghiệm mang tên: “Một số phương pháp nhằm nâng cao chất lượng dạy phân môn học hát tại trường THCS”.
2. Điều kiện thời gian, đối tượng áp dụng sáng kiến
- Thời gian áp dụng sáng kiến: Năm học 2013-2015 
	- Đối tượng áp dụng sáng kiến là học sinh khối lớp 6 bậc THCS
3. Nội dung cơ bản của sáng kiến
- Giúp học sinh yêu thích phân môn học hát và phân biệt được các thể loại bài hát thiếu nhi Việt Nam cũng như bài hát thiếu nhi nước ngoài, với những đặc trưng cơ bản khác nhau của từng vùng, từng miền và từng dân tộc, từng đất nước.
- Giúp học sinh phát triển năng khiếu và khắc phục những hạn chế khi hát. Cụ thể là: 
+ Hình thành cho học sinh các kỹ năng cần thiết về ca hát để thể hiện bài hát với sự truyền cảm, hấp dẫn.
+ Phát triển tai nghe âm nhạc và nhạc cảm trên cơ sở rèn luyện các kỹ năng ca hát ở mức độ phổ thông, thông qua từng kiểu bài, loại bài hát.
+ Phát triển giọng hát tự nhiên, củng cố và mở rộng âm vực của giọng.
+ Giúp học sinh học thuộc, hát đúng và biết trình bày một cách chủ động,
- Lợi ích của sáng kiến: Việc đổi mới phương pháp dạy phân môn học hát trong các tiết học hát phần lớn học sinh thực sự quen với cách học mới, chủ động hơn trong việc tự mình tìm hiểu, vỡ bài hát, xây dựng và chiếm lĩnh tri thức âm nhạc, có lòng say mê và yêu thích môn học hơn. Không còn coi môn học là môn học phụ, môn học không cần tư duy và trí tuệ như trước nữa.
4. Hiệu quả của sáng kiến đem lại
Sáng kiến đã được áp dụng trong 2 năm học (từ năm 2013 đến nay). Qua việc áp dụng thử nghiệm sáng kiến này, tôi nhận thấy học sinh đã có định hướng rõ rệt trong việc học tập môn học âm nhạc. Các em yêu thích và hứng thú trong khi học hát và kết quả các bài kiểm tra trên lớp cũng như bài kiểm tra học kì đều đạt kết quả tốt. Đặc biệt trong hội thi văn nghệ của các cấp các em đã thể hiện rõ lòng nhiệt tình và sự đam mê âm nhạc trong con người các em.
Đề xuất khuyến nghị để thực hiện áp dụng hoặc mở rộng sáng kiến
- Để áp dụng đề tài này thành công giáo viên cần xác định rõ mục tiêu và tầm quan trọng của tiết dạy hát, phải đổi mới cách soạn bài. Học sinh phải chuẩn bị và tìm hiểu bài ở nhà trước khi đến lớp, trong quá trình học tập cần phải tích cực hoạt động.
- Ngoài ra để nhân rộng đề tài trên cần phải phụ thuộc vào điều kiện thực tế về cơ sở vật chất:
+ Đồ dùng trực quan phải đầy đủ: Đàn điện tử, băng, đài, tranh ảnh,
+ Học sinh có đầy đủ sách giáo khoa.
+ Có phòng học riêng
+ Lòng yêu thích, sự ủng hộ nhiệt tình, tích cực của học sinh đối với môn học là yếu tố quan trọng để áp dụng vào đề tài.
PHẦN II
MÔ TẢ SÁNG KIẾN
1. Hoàn cảnh nảy sinh sáng kiến.
 Trong thời kỳ đổi mới và phát triển mọi mặt về kinh tế- văn hoá- chính trị và xã hội hiện nay Đảng và nhà nước ta luôn coi trọng vấn đề Giáo dục con người phát triển toàn diện đặc biệt là thế hệ trẻ.
Giáo dục đã trở thành nhân tố tích cực, một động lực thúc đẩy sự phát triển của sản xuất mà sản phẩm chính là nguồn nhân lực cho xã hội, mở đường cho sự phát triển kinh tế khoa học công nghệ, văn hoávv. Đại hội VIII của Đảng ta khẳng định: “Phát triển giáo dục và khoa học là quốc sách hàng đầu nhằm xây dựng chiến lược con người trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, đưa đất nước phát triển nhanh chóng và bền vững, mau chóng sánh vai được với các nước phát triển trong khu vực và trên thế giới” từ ý nghĩa và tầm quan trọng ấy mà đòi hỏi ngành giáo dục phải đổi mới mục tiêu, nội dung, hình thức, phương pháp đào tạo, nhằm nâng cao chất lượng đào tạo một cách toàn diện có hiệu quả cao, thiết thực. Đặc biệt là hệ thống giáo dục phổ thông, một bậc học vô cùng quan trọng. Đây là bước tạo nên sự hình thành và phát triển nhân cách của lớp trẻ Việt Nam. Một trong những môn học có ý nghĩa to lớn và tích cực trong việc hình thành và phát triển nhân cách toàn diện cho học sinh đó là môn âm nhạc. Âm nhạc là loại hình nghệ thuật quan trọng, gắn bó với cuộc sống thường ngày của mỗi con người, phản ánh cuộc sống bằng các hình tượng âm thanh cho con người từ lúc sinh ra cho đến hết cuộc đời.
Bởi vậy những cá nhân tập thể và các cơ quan chức năng cần có những biện pháp, trách nhiệm hướng dẫn cho tuổi trẻ thưởng thức âm nhạc, hiểu âm nhạc một cách có hiệu quả cao nhất, thiết thực nhất.
Mục đích của giáo dục âm nhạc trong nhà trường THCS là vô cùng quan trọng, bởi đã đưa âm nhạc vào đời sống của học sinh góp phần giáo dục thẩm mỹ, đạo đức lối sống, phát triển trí tuệ, thể chất ở học sinh, khích lệ các em có khả năng phát triển toàn diện để sau này trở thành những con người “Vừa hồng vừa chuyên” xây dựng đất nước đáp ứng yêu cầu đòi hỏi của cách mạng dưới sự lãnh đạo của Đảng và nhà nước ta.
Là một giáo viên dạy tại trường THCS, trực tiếp giảng dạy bộ môn âm nhạc thông qua các phân môn: Dạy hát, nghe nhạc, tập đọc nhạc, âm nhạc thường thức, chính vì vậy phải có tinh thần trách nhiệm cao, có kiến thức chuyên môn giỏi, có tâm hồn và lối sống trong sáng lành mạnh, có tình thương yêu học sinh để hướng các em vào học môn âm nhạc có hiệu quả cao nhất.
Với điều kiện hiện nay vừa là chủ quan vừa là khách quan, các phương tiện và cơ sở vật chất dành cho giảng dạy âm nhạc còn gặp nhiều khó khăn. Cho nên nhìn chung hiệu quả giáo dục môn âm nhạc, trong đó có phân môn học hát còn hạn chế. Qua học tập và thực tiễn trong công tác giảng dạy môn âm nhạc ở trường THCS. Tôi đã có những kết quả nghiên cứu để góp một phần nhỏ cho sự nghiệp chung và có những bổ ích thiết thực cho bản thân nhằm nâng cao hơn nữa hiệu quả giảng dạy phân môn học hát cho học sinh trường THCS nói chung và trường THCS nơi tôi giảng dạy nói riêng nhằm góp phần tích cực cho ngành giáo dục đào tạo nơi có nhiệm vụ cao cả là: “ Nâng cao trí tuệ, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài cho đất nước” đó chính là đáp ứng được yêu cầu đòi hỏi ngày một cao hơn của ngành giáo dục đào tạo từ trung ương, tỉnh và huyện đã luôn luôn quan tâm, trực tiếp chỉ đạo, hướng dẫn cho giáo viên giảng dạy môn âm nhạc ở các cấp học phổ thông đúng quy định, khoa học và thiết thực. Ở bậc học sinh THCS  học đủ 13 môn, riêng học sinh khối lớp 6 học 12 môn trong đó có cả môn âm nhạc. Ngoài nhiệm vụ cung cấp kiến thức, phương pháp đào tạo nhằm nâng cao chất lượng đào tạo đối với đội ngũ giáo viên phổ thông nói chung giáo viên âm nhạc noí riêng có khả năng đáp ứng được yêu cầu của ngành giáo dục đào tạo trong giai đoạn cách mạng mới đó là: Cung cấp kiến thức và rèn luyện kỹ năng về nghệ thuật âm nhạc và trước hết là ca hát cho học sinh. Riêng ở trường THCS  nơi tôi đang giảng dạy môn âm nhạc, tôi vẫn thực hiện 3 phân môn: Học hát, Nhạc lý-tập đọc nhạc và âm nhạc thường thức có hiệu quả cao được học sinh yêu thích âm nhạc, tập trung tiếp thu bài giảng có hiệu quả tốt đẹp. Là giáo viên trực tiếp giảng dạy môn âm nhạc ở trường THCS một yêu cầu được đặt ra cho bản thân tự rèn luyện phấn đấu, đó là làm thế nào để dạy tốt quả là không đơn giản. Bởi vậy tôi luôn cố gắng vươn lên để học tập nghiệp vụ, lý luận về chuyên môn thật giỏi. Gắn lý luận với thực tiễn, bám sát đường lối chủ trương của đảng nhà nước về đường lối văn hoá văn nghệ của đảng, nắm vững yêu cầu và sự đòi hỏi của ngành giáo dục đào tạo trong giai đoạn hiện nay cũng như qua kinh nghiệm giảng dạy tôi đã chọn và nghiên cứu với tên đề tài: “Một số phương pháp nhằm nâng cao chất lượng dạy phân môn học hát tại trường THCS”.
2. Cơ sở lí luận
Trong thời kỳ đổi mới và phát triển ca hát luôn là món ăn tinh thần cho con người cũng như trong chương trình giáo dục ở các cấp học. Đối với các cấp tiểu học, THCS thì đây là kiến thức ban đầu giúp cho học sinh học và biết ca hát theo một quy định chung nhất. Nhưng qua thực tế việc giảng dạy phân môn này ở trường  THCS, tôi thấy còn rất nhiều khó khăn như:
Ngoài sự quan tâm của ngành giáo dục, sự giúp đỡ của các lãnh đạo và giáo viên trong trường thì mong muốn của tôi là đội ngũ giáo viên âm nhạc phải thật đồng bộ từ cấp mầm non, tiểu học và THCS. Vì nếu không có sự đồng bộ thì việc truyền thụ kiến thức sẽ gặp khó khăn cho giáo viên dạy các lớp sau. 
Ví dụ: Giáo viên dạy mẫu giáo có khả năng gây sự say xưa yêu thích học hát, nghe âm nhạc cho các em ngay buổi ban đầu và tiếp đó khi lên cấp tiểu học các em đã vốn có cảm tình yêu thích học hát, nghe âm nhạc đây là cơ sở tốt cho giáo viên âm nhạc truyền thụ những kiến thức mới cho ở cấp tiểu học cho các em. Học xong tiểu học cũng như các môn học khác, các em đã có sẵn vốn kiến thức nói chung.  Riêng môn âm nhạc và học hát vốn là sở thích của các em khi ở độ tuổi ban đầu “Học mà chơi, chơi mà học” ở các cấp mẫu giáo và ở các cấp đầu bậc tiểu học, lên cấp THCS, các em đã có kiến thức và sự say mê cộng với sự nhiệt tình, tinh thần trách nhiệm và đặc biệt là trình độ năng lực nghiệp vụ chuyên môn của giáo viên âm nhạc ở mức độ cao hơn sẽ tạo ra sự say mê ham thích, ưu ái môn học này. Đây là động lực to lớn để thúc đẩy các môn học khác và các hoạt động xã hội của nhà trường.
Các trang thiết bị về cơ sở vật chất như : Nhạc cụ, phòng học nhạc, phòng hát cần được xây dựng thật phù hợp để môn học thật sự có chất lượng cao. Bản thân người giáo viên âm nhạc phải năng động sáng tạo, tranh thủ được sự nhiệt tình của lãnh đạo và giáo viên nhà trường, sự giúp đỡ của Đảng, chính quyền xã, của phụ huynh học sinh để tuyên truyền, thuyết phục các tổ chức đoàn thể và từng thành viên hiểu về tầm quan trọng của môn học âm nhạc.
2.1. Cơ sở thực tiễn
Thực tế ở các trường THCS hầu hết chỉ có một giáo viên dạy âm nhạc nên hoạt động chuyên môn nghiệp vụ ở trường khó có thể tổ chức dự giờ để mà các giáo viên khác nhìn nhận đánh giá một cách chính xác được. Nếu đánh giá một cách chủ quan thì bản thân giáo viên âm nhạc phải có khả năng khảo sát, đánh giá phân tích trung thực và khách quan trong quá trình học hát và kết quả học hát của học sinh thật khoa học. Theo quy định mỗi giáo viên trong trường phải thao giảng 2 tiết trong năm học tới dự giờ có các thành viên trong nhà trường nhưng do chuyên môn có khác nhau nên việc đánh giá kết luận khó có thể đạt mức chính xác được. Do tính đặc thù của môn học nên khi tổ chức dự giờ để nhận xét đánh giá kết quả. Ngành giáo dục cấp huyện cần bố trí xắp xếp thành cụm bố trí các giáo viên âm nhạc đến lần lượt dự giờ ở từng trường vừa mang tính khách quan, vừa học hỏi được với nhau tạo thành sức mạnh tổng hợp trong phương pháp giảng dạy môn âm nhạc .
2.2. Đối tượng nghiên cứu
Tôi chọn lựa đối tượng nghiên cứu là học sinh khối lớp 6 Trường THCS. Từ đối tượng chính là học sinh lớp 6 có thể giúp tôi đi sâu nghiên cứu thêm về các đối tượng khác, để môn học hát trở thành món ăn tinh thần không thể thiếu được trong đời sống nhân dân. Đặc biệt là giới trẻ để sớm đưa ra những giải pháp nâng cao chất lượng dạy phân môn học hát tại trường.
2.3. Phạm vi nghiên cứu
Thực hiện theo đường lối của Đảng và nhà nước cũng như của ngành Giáo Dục: “Công tác giáo dục phải từng bước xã hội hoá” môn học Âm nhạc và phân môn Học hát có tầm quan trọng như đã trình bày trên, nên phạm vi nghiên cứu của tôi là giáo viên và học sinh trường THCS .
2.4. Những phương pháp nghiên cứu chính
Qua một quá trình được học tập, nghiên cứu và hướng dẫn, cộng với thực tiễn trong quá trình công tác. Các phương pháp giúp cho tôi tập trung vào nghiên cứu chính . Đó là:
- Phương pháp điều tra.
- Phương pháp quan sát.
- Phương pháp phân tích tổng hợp.
- Phương pháp thống kê.
3. Thực trạng dạy phân môn học hát ở trường THCS
3.1.Tầm quan trọng đối với học sinh ở trường THCS
Âm nhạc có một vị trí quan trọng trong đời sống con người, đối với mỗi người hoạt động ca hát là nguồn nuôi dưỡng tinh thần. Các giai điệu trầm bổng, sự phong phú của tiết tấu ở các thể loại bài hát sẽ đưa chúng ta vào thế giới một cách tươi đẹp, hấp dẫn và lý thú. Ca hát luôn luôn giúp chúng ta cảm nhận cuộc sống tươi đẹp tràn đầy niềm vui, niềm hạnh phúc. Từ khi còn nằm trong bụng mẹ trẻ cũng có thể cảm nhận được ca hát một cách thụ động, phản ứng với âm nhạc ngay lúc này. Nhiều công trình nghiên cứu khoa học trên thế giới đã chứng minh khi người mẹ mang thai  4 tháng rưỡi trở đi, nếu cho thai nhi nghe nhạc một cách gián tiếp các thể loại âm nhạc sẽ giúp cho trí tuệ thai nhi phát triển ngay từ lúc còn trong bào thai. Rồi khi lọt lòng, trẻ đã từng bước tiếp xúc với những câu hát ru trìu mến, nhẹ nhàng đầy tình cảm.
Biết bao nhiêu tâm sự, bao điều dạy dỗ người mẹ gửi gắm cho con mình qua những khúc hát ru. Lời ru cũng chính là tâm hồn của người mẹ, là giai điệu của quê hương, là nguồn nuôi dưỡng tình cảm và nhân cách cho trẻ em sau này. Rồi cùng với năm tháng khi trẻ lớn dần lên lại được tiếp xúc với những bài đồng dao. Những bài hát này với nét nhạc vui tươi, dí dỏm, hồn nhiên gắn bó với trẻ trong những trò chơi ngây thơ, hồn nhiênnhư: Tập tầm vông, rồng rắn lên mây, thả đỉa ba ba, lộn cầu vồng
Từ lúc trẻ thụ động nghe âm nhạc cho đến khi chủ động. Tìm đến với câu hát vần điệu, kèm theo những trò chơi, tất cả đều giúp cho trẻ lớn lên là đặt nền tảng âm nhạc đầu tiên cho trẻ, đồng thời nó là yếu tố tác động đến tình cảm và nhân cách cho trẻ sau này.
Đến tuổi thanh niên khi những rung động của tình yêu thì ca hát được thể hiện bằng những câu hát giao duyên, huê tình, đến khi qua đời con người vẫn gắn bó với âm nhạc.
Từng bài hát câu hát đều phản ánh một cách hình tượng những khái niệm sâu sắc về cuộc sống, thiên nhiên, cảnh vật, con người và các mối quan hệ, tư tưởng , tình cảm. Hoạt động ca hát không chỉ là phương tiện thể hiện cảm xúc, suy nghĩ của người hát, mà còn khơi dậy ở người nghe những xúc động tương ứng những hiểu biết nhất định đem lại khoái cảm thẩm mỹ. Sức diễn cảm của giọng hát, cùng với những phong cách, cử chỉ, nét mặt phù hợp sẽ thu hút được học sinh. Nó khơi dậy ở học sinh những cảm xúc chân thực với cái đẹp, cái thiện.
Giáo dục và giảng dạy âm nhạc cho học sinh phổ thông có tác dụng lớn lao vào đời sống tinh thần của các em, nhằm góp phần cùng các môn học khác để thực hiện thắng lợi mục tiêu của ngành giáo dục đào tạo đề ra. Thấy rõ tầm quan trọng của ca hát đối với học sinh, nên đòi hỏi những yêu cầu của việc dạy hát ở trường THCS cần có những đổi mới.
Ca hát có vị trí quan trọng, là nhu cầu trong đời sống của con người. Hoạt động ca hát ảnh hưởng đến con người bằng tác động của giai điệu và lời ca. Âm nhạc có lời (âm nhạc cho giọng hát) có ảnh hưởng trực tiếp và sâu sắc đến tư tưởng tình cảm của con người ca hát đặc biệt gắn bó, gần gũi với lứa tuổi thanh thiếu niên, nhất là trẻ nhỏ đây là cơ sở tốt cho chương trình giáo dục âm nhạc và học hát từ độ tuổi mẫu giáo trở lên.
Ca hát là một hoạt động giáo dục nhẹ nhàng và hấp dẫn mang lại hiệu quả xã hội cao. Những nội dung phong phú, bổ sung vốn sống cho các em, cung cấp thêm từ ngữ và làm rung động các cảm xúc thẩm mỹ cho các em. Hoạt động ca hát cũng là người bạn đồng hành của trẻ trong mọi hoạt động về mặt sinh lý như: Học sinh thở sâu hơn rất có lợi cho hệ hô hấp và tuần hoàn, dây thanh đới được rung động tinh tế giúp giọng nói của các  em thêm truyền cảm, thính giác phát triển, thần kinh hưng phấn, sức khoẻ tăng cường. Riêng dạy học hát cho học sinh lớp 6 giáo viên cần phải có kỹ năng hát cơ bản, hát chuẩn xác và diễn cảm để thu hút sự chú ý của học sinh giúp các em hát đúng hát hoà giọng, biết thể hiện tình cảm, sác thái của bài hát, hiểu nội dung của tác phẩm và cảm nhận được vẻ đẹp của hình tượng của âm nhạc qua giai điệu và lời ca của từng bài hát.
3.2. Cơ sở vật chất thiết bị dạy học
Tập trung mọi khả năng hiện có, kết hợp giữa nhà nước và nhân dân cùng làm. Nhiệm vụ nâng cao chất lượng phòng học và trang thiết bị cần thiểt trong nhà trường điều này đã được nhà trường và chính quyền địa phương quan tâm nhưng cũng chỉ ở mức độ nhất định.
3.3 Đội ngũ giáo viên âm nhạc
Thời đại mà chúng ta sống hiện nay là thời đại của công nghệ. Công nghệ thông tin đang phát triển mạnh mẽ và có ảnh hưởng tích cực tới cuộc sống của con người. Từng quốc gia đã và đang nhanh chóng nắm bắt thành tựu của khoa học công nghệ để phục vụ cho sự phát triển nước nhà.
Đảng và nhà nước ta luôn xác định đầu tư cho giáo dục là quốc sách hàng đầu, đây là biện pháp để theo kịp các nước phát triển trong khu vực và trên thế giới. Lúc nào cũng vậy người giáo viên với vai trò là cầu nối là nhân tố giữ vị trí trung tâm giúp học sinh tiếp cận với nền tri thức tiên tiến.
Thực tế của môn âm nhạc nói chung, dạy phân môn học hát nói riêng thì còn có nhiều người xung quanh nghĩ chưa đúng. Họ nghĩ rằng giáo viên chỉ cần biết qua nhạc lý và biết hát là đủ. Chỉ cần dạy cho học sinh biết hát và hát đúng là được. Nếu đứng bên ngoài thì số ít có suy nghĩ như vậy, còn thực tế thì khác. Trong một tiết dạy hát nếu giáo viên chỉ đơn thuần dạy đúng bài hát cho học sinh thì giờ học hát đấy chỉ dừng lại ở mức độ dạy bình thường. Ở đây ta phải thấy điều quan trọng là qua bài hát đó có nội dung tư tưởng khơi dậy và tạo nên hưng phấn, sự hứng thú sáng tạo và say mê nghệ thuật, sự chú ý thích thú tới nội dung cho các em, để làm được việc này đòi hỏi mỗi giáo viên phải có trình độ âm nhạc nhất định và có hiểu biết về xã hội một cách sâu sắc. Giáo viên phải thường xuyên học tập chuyên môn nghiệp vụ, học tập lý luận chính trị, tìm tòi các phương pháp hay nhất để áp dụng vào bài giảng có hiệu qủa cao nhất.
Người giáo viên phải tăng cường nhiệm vụ tự học tập mọi lúc, mọi nơi, mọi cách để mở rộng và cập nhập kiến thức, nhuần nhuyễn kỹ năng có vốn tích luỹ rộng để xử lý linh hoạt mọi tình huống xảy ra trong giảng dạy. Trên thực tế người giáo viên không chịu học hỏi, tư duy sáng tạo thì việc giảng dạy gặp nhiều khó khăn hạn chế về chuyên môn, ví như: sử dụng nhạc cụ, giọng hátĐiều này đã ảnh hưởng không nhỏ đến quá trình giảng dạy chính vì vậy mà việc học tập càng có ý nghĩa với giáo viên.
Một vấn đề quan trọng nữa yêu cầu mỗi giáo viên phải luôn bám sát vào những mục tiêu quan điểm, nhiệm vụ và hướng chỉ đạo của cấp trên. Vì thực tế trong chương trình của học sinh lớp 6 nói riêng và các khối lớp nói chung, hàng năm vẫn có sự thay đổi, nhằm cải tiến từng bước cho phù hợp với thực tế. Do vậy các giáo viên chuyên trách phải chủ động nắm bắt kịp thời những chủ trương, nội dung chỉ đạo, hay chỉnh lý, thay sách của bộ giáo dục và đào tạo. Nắm vững các hướng dẫn cụ thể của cấp trên người giáo viên chủ động xây dựng kế hoạch chương trình làm việc đúng đắn có nội dung chất lượng thiết thực bổ ích.
Về tài liệu giảng dạy giáo viên cần có đầy đủ giáo trình, sách giáo khoa theo quy định, tăng cường sưu tầm, nghiên cứu các tài liệu nghiệp vụ để bổ sung kiến thức về con người, tự nhiên, xã hội có liên quan đến bài giảng.
Tích cực tham gia với các trường để giao lưu dự giờ với các đồng nghiệp, học hỏi trao đổi kinh nghiệm để nâng cao trình độ chuyên môn mang lại hiệu quả trong giảng dạy.
Hành trang của người giáo viên là kiến thức, kỹ năng, nghiệp vụ, chuyên khoa âm nhạc cùng với tấm lòng yêu ngành, yêu học sinh, yêu mái trường, yêu quê hươngNgười giáo viên luôn luôn học tập về cách sử dụng ngôn ngữ trong trình bày diễn đạt, sử dụng ngôn ngữ giản dị, chính xác và đúng chuẩn mực tiếng việt, để bài giảng đi vào lòng học sinh một cách nhẹ nhàng, tình cảm mà chất lượng hiệu quả cao.
Nhưng thực tế qua khảo sát tôi thấy: Phần nhiều các bài soạn của giáo viên giống với các sách hướng dẫn, đôi khi giáo viên còn soạn một lúc nhiều bài, thậm chí sử dụng giáo án của những năm trước để giảng dạy cho năm sauĐây là những thiếu sót chủ yếu ở một số ít giáo viên. Việc này cần được nghiêm túc sửa chữa để trong việc soạn giáo án cảm thụ âm nhạc của giáo viên phải có sự sáng tạo, tập trung nghiên cứu đồng bộ tới giai điệu, tiết tấu, hoà âm cho đến lời ca. Làm cho học sinh có cảm hứng, say sưa, tập trung chú ý vào bài hát mà không hề có một tí rụt rè, lúng túng.
3.4 Khả năng tiếp thu ca hát của học sinh
Trường THCS có môn học âm nhạc từ năm học 2001 – 2002. Giáo viên âm nhạc tuy chỉ có một mình nhưng với lòng nhiệt huyết yêu nghề, yêu học sinh, yêu trường lớp nên luôn được lãnh đạo, đồng nghiệp và học sinh yêu mến. Mặt khác học sinh của trường nói chung đặc biệt là học sinh lớp 6 vừa chuyển cấp nói riêng rất chăm ngoan, đa số các em là con em của nông dân nông nghiệp.
Song hạn chế lớn nhất của các em là thói quen thụ động trong quá trình học tập giờ học âm nhạc cụ thể là phân môn học hát, các em chưa chủ động tìm hiểu bài, mà chỉ trông chờ giáo viên lên lớp hát và hát theo. Đối với các ký hiệu âm nhạc ghi trên bài hát thì các em ít nhớ và tỏ ra lúng túng, năng lực cảm thụ âm nhạc của các em học sinh còn rất hạn chế, thực tế cho thấy vì quá lệ thuộc vào các bài hát trong sách giáo khoa, đây cũng là hạn chế vốn hiểu biết về phân môn học hát trong chương trình, trong giờ học hát có nhiều em bước đầu còn e thẹn, rụt rè không chủ động xây dựng bài. Riêng học sinh lớp 6 vừa ở tiểu học lên nên các em còn nhút nhát bởi vậy giáo viên phải nhẹ nhàng bằng tình cảm và sự trừu mến của mình để uốn nắn các em.
Kết quả điều tra:
Tên lớp
Sĩ số
Thích
Bình thường
Không thích
Số lượng
%
Số lượng
%
Số lượng
%
6A
30
20
66,6
7
23,4
3
10
6B
25
18
72
5
20
2
8
Để điều tra một cách chính xác về mức độ yêu thích môn âm nhạc của học sinh khối lớp 6 trường THCS bên cạnh việc phát phiếu thăm dò các em, tôi thường quan sát thái độ biểu hiện cử chỉ của các em trong các giờ lên lớp. Nếu yêu thích môn học các em sẽ chăm chú lắng nghe cô giảng ghi chép bài đầy đủ. Về nhà các em sẽ tự giác học bài và làm bài tập chu đáo. Sau một thời gian quan sát và căn cứ vào kết quả bài kiểm tra cho thấy :
Nhận xét: Kết quả trong quá trình khảo sát và điều tra thực tế về phân môn học hát của học sinh khối lớp 6 trường THCS cho thấy: những năm đầu thật bỡ ngỡ cho học sinh. Nhưng với sự nhiệt tình yêu quý học sinh, tôi người giáo viên âm nhạc đã tận tình, gần gũi học sinh từng bước đưa các em vào làm quen và ham thích môn học nên dần dần có chuyển biến rõ rệt. Một số em ham thích không những chú ý học nhạc, học hát ở trường mà về nhà còn tiếp xúc với các phương tiện có ở thông tin đại chúng như: đàn phím điện tử, đài, đĩa, băng, ti vi, internetcó chọn lọc phù hợp với nội dung học tập của các em, điều này sẽ cho thấy hiện tại và tương lai môn âm nhạc và phân môn học hát ở Nhà trường THCS là vô cùng quan trọng và không thể thiếu được.
3.5  Phương pháp và kết quả dạy hát
Phân môn học hát là một trong những nội dung quan trọng trong chương trình âm nhạc THCS, học hát rèn luyện một số kĩ năng mang tính phổ thông về ca hát được vận dụng và các bài hát cụ thể trong chương trình. Học hát các bài hát cụ thể tách rời việc rèn luyện một số kĩ năng hát chung mà phải đi chính kĩ năng chung và kĩ năng cụ thể của bài hát đó đúng với yêu cầu.
Các kĩ năng hát cần rèn luyện cho học sinh gồm có:
* Tư thế hát:
Trong quá trình học hát trước hết phải luyện tư thế hát, hát tập thể có thể tiến hành ở tư thế đứng hoặc ngồi.
- Khi đứng hát: người thẳng, đầu không nghiêng, không so vai, hai tay buông dọc theo thân thoải mái, toàn bộ thân thể dồn vào 2 chân đều nhau.
- Khi ngồi hát: đầu và thân người giống như khi đứng hát, hai tay đặt trên đầu gối, lưng thẳng không tựa vào ghế, không vắt chân nọ lên chân kia.
- Tập tư thế hát đúng giúp cho việc hô hấp thuận lợi mà hô hấp là một việc rất quan trọng trong quá trình ca hát.
* Hơi thở:
Trong ca hát hơi thở là một trong những vấn đề hết sức quan tâm, cách thở đúng là biết cách hít vào một lượng hơi vừa đủ để hát hết một câu hát (câu hát có thể dài ngắn khác nhau). Khi tập hít hơi vào không nên hít nhiều quá, hơi sẽ bị căng phải lên gân không điều tiết được hơi. Giáo viên cần phải hướng dẫn học sinh lấy hơi bằng mũi, không hít bằng miệng. Lấy hơi bằng miệng cổ họng chóng bị khô, rát
Khi hát các bài hát có nhịp độ chậm vừa phải, cần phải hướng dẫn cho các em lấy hơi chậm hít bằng mũi, nên đánh dấu những chỗ lấy hơi trong bài hát để học sinh có thể thực hiện đúng, biết cách lấy hơi, lấy hơi hợp lý mới có thể hát ngân dài ở cuối câu hát.
* Hát chính xác:
Trong ca hát việc hát chính xác có tầm quan trọng đặc biệt. Hát chính xác có nghĩa là hát đúng giai điệu, tiết tấu của bản nhạc. Mức độ hát chính xác của từng học sinh phụ thuộc vào khả năng nghe nhạc và khả năng của các cơ quan phát âm. Nếu học sinh tập trung chú ý, phân biệt được rõ độ cao thấp, nhanh chậm của âm thanh, ghi nhớ được giai điệu, tiết tấu của bản nhạc thì khi giáo viên hát mẫu các em có thể nhắc lại chính xác, nếu học sinh phải hát cao hơn hoặc thấp hơn giọng trung bình của bản thân thì có thể ảnh hưởng ngay tới việc hát chính xác. Một trong những điều kiện để giúp cho học sinh phát triển kĩ năng hát chính xác là việc lựa chọn giọng bài hát cho phù hợp với âm vực giọng của các em.
* Hát đồng đều:
Giáo viên cần dạy cho các em có kĩ năng hát đồng đều và hoà giọng, có thể vận dụng một số biện pháp sau:
- Thu hút sự chú ý của toàn thể học sinh.
- Dẫn vào câu hát đầu tiên bằng động tác chỉ huy hay nghe dạo nhạc hoặc nghe giáo viên hát một câu ngắn rồi theo hiệu lệnh đến bắt vào bài.
- Theo động tác tay chỉ huy của giáo viên, học sinh có thể hát nhanh, chậm, to, nhỏ, nhấn, nảy hoặc hát liền hơi.
- Giúp học sinh cách phát âm, nhả chữ đúng cũng làm cho giọng hát của các em đồng đều, hoà hợp.
* Phát âm, nhả chữ, hát rõ lời:
Nhả chữ là sự cấu tạo rành rọt, chính xác về phương diện phát âm của từ. Khi hát tập thể cũng như hát cá nhân rất cần quan tâm đến vấn đề này.
Hát rõ lời góp phần truyền cảm và thông tin chính xác nội dung ca từ của bài hát. Những nguyên tắc phát âm lời ca trong ca khúc Việt Nam có liên quan chặt chẽ đến sự vận động của 6 thanh điệu (thanh không dấu, thanh dấu sắc, thanh dấu huyền, thanh dấu hỏi, thanh dấu ngã, thanh dấu nặng) trong ngữ âm tiếng Việt.
3.5.1. Thực hiện chương trình dạy hát
Đối với những học sinh có năng khiếu ca hát, tai nghe và trí nhớ âm nhạc tốt thì khi tiếp xúc với bài hát mới các em chỉ cần nghe qua một vài lần là thuộc và có thể hát đúng giai điệu. Những trường hợp đó không nhiều trong mỗi lớp học trên dưới 40 học sinh. Việc dạy hát theo một trình tự quy định và trình tự là tất yếu không thể bỏ qua bởi dạy hát là một quá trình rèn luyện tai nghe, nhạc cảm, xử lí hơi thở, cách phát âm, nhả chữ cùng với những kĩ năng ca hát thông thường khác.
Quy trình dạy hát thường chia thành 3 bước:
Một là: Giới thiệu bài hát và hát mẫu.
Hai là: Dạy học bài hát
Ba là: Luyện tập củng cố biểu diễn bài hát
* Giới thiệu bài hát và hát mẫu:
Dạy cho học sinh hát một bài hát mang tính chất giáo dục âm nhạc là một quá trình gồm nhiều giai đoạn. Muốn các em hát hay, hát đúng và có truyền cảm các em phải được nghe, được xem bài hát trước khi học. Trước khi bắt đầu dạy hát, khâu đầu tiên có ý nghĩa qua trọng là phải tạo được trong ý thức các em hình tượng đầy đủ trọn vẹn bài hát các em học. Trong bước giới thiệu ngắn gọn về bài hát chú ý 2 phần:
- Giới thiệu bài hát sắp học cho học sinh nắm.
- Cho học sinh nghe toàn bộ bài hát
+ Giới thiệu bài hát
Bước vào học hát, giáo viên tóm tắt ngắn g

File đính kèm:

  • docsang_kien_kinh_nghiem_mot_so_phuong_phap_nham_nang_cao_chat.doc