Sáng kiến kinh nghiệm Phát triển năng lực sử dụng từ ngữ cho học sinh lớp 6 qua việc phát hiện và chữa lỗi dùng từ trong bài văn miêu tả

1.Hoàn cảnh nảy sinh sáng kiến

1.1. Hoàn cảnh chung

Chương trình giáo dục định hướng phát triển năng lực nay còn gọi là dạy học định hướng kết quả đầu ra được bàn đến nhiều từ những năm 90 của thế kỷ 20 và ngày nay đã trở thành xu hướng giáo dục quốc tế. Giáo dục định hướng phát triển năng lực nhằm mục tiêu phát triển năng lực người học.Giáo dục định hướng năng lực nhằm đảm bảo chất lượng đầu ra của việc dạy học, thực hiện mục tiêu phát triển toàn diện các phẩm chất nhân cách, chú trọng năng lực vận dụng tri thức trong những tình huống thực tiễn nhằm chuẩn bị cho con người năng lực giải quyết các tình huống của cuộc sống và nghề nghiệp. Chương trình này nhấn mạnh vai trò của người học với tư cách chủ thể của quá trình nhận thức.

Thực tiễn đổi mới giáo dục ở nhiều quốc gia trong vài thập niên gần đây khẳng định cách xây dựng chương trình (CT) theo định hướng phát triển năng lực là xu hướng tất yếu, đáp ứng yêu cầu giáo dục và đào tạo con người trong bối cảnh khoa học và công nghệ phát triển với tốc độ chưa từng có và nền kinh tế tri thức đóng vai trò ngày càng quan trọng đối với mọi quốc gia.

1.2 Hoàn cảnh cụ thể của môn học

 CT và SGK  Ngữ văn hiện hành đã chú trọng kết hợp việc cung cấp lí thuyết với thực hành. Khả năng ứng dụng các kiến thức lí thuyết về Tiếng Việt, về Văn học và tập làm văn ...vào thực tiễn sử dụng ngôn ngữ trong đời sống cũng như trong quá trình tạo lập văn bản, về cơ bản đã được quan tâm nhiều trong quá trình xây dựng CT và SGK, song, trên thực tế, các kĩ năng sử dụng tiếng Việt nói chung của học sinh phổ thông vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu xã hội. Tình trạng nói sai, viết sai, diễn đạt không đúng với suy nghĩ, khó khăn trong việc đạt được mục đích giao tiếp... vẫn tồn tại, nếu không muốn nói là còn tương đối phổ biến.  

 Khả năng nhận diện và sửa lỗi trong quá trình viết văn đặc biệt là văn miêu tả của học sinh lớp 6 còn hạn chế. 

doc 25 trang Anh Hoàng 27/05/2023 4240
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Phát triển năng lực sử dụng từ ngữ cho học sinh lớp 6 qua việc phát hiện và chữa lỗi dùng từ trong bài văn miêu tả", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Phát triển năng lực sử dụng từ ngữ cho học sinh lớp 6 qua việc phát hiện và chữa lỗi dùng từ trong bài văn miêu tả

Sáng kiến kinh nghiệm Phát triển năng lực sử dụng từ ngữ cho học sinh lớp 6 qua việc phát hiện và chữa lỗi dùng từ trong bài văn miêu tả
THÔNG TIN CHUNG VỀ SÁNG KIẾN
1. Tên sáng kiến: Phát triển năng lực sử dụng từ ngữ cho học sinh lớp 6 qua việc phát hiện và chữa lỗi dùng từ trong bài văn miêu tả.
2. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến: Môn Ngữ văn
3. Tác giả: 
- Họ và tên: Trương Thị Như Hoa
- Sinh ngày 01/02/1979
- Trình độ chuyên môn: Đại học Văn
- Chức vụ: Phó hiệu trưởng
- Đơn vị: THCS Hoàng Hanh
- Điện thoại: 01638555057
4. Chủ đầu tư tạo ra sáng kiến: Không
5. Đơn vị áp dụng sáng kiến lần đầu: Trường THCS Hoàng Hanh
6. Các điều kiện cần thiết để áp dụng sáng kiến: Học sinh THCS
7. Thời gian áp dụng sáng kiến lần đầu: năm học 2013- 2014
 Tác giả	 Xác nhận của đơn vị áp dụng 
 sáng kiến
 TÓM TẮT SÁNG KIẾN
1.Hoàn cảnh nảy sinh sáng kiến
1.1. Hoàn cảnh chung
- Chương trình giáo dục định hướng phát triển năng lực đã trở thành xu hướng giáo dục quốc tế và trong nước, đáp ứng yêu cầu giáo dục và đào tạo con người .
- Nhận thức chung của xã hội, người dạy và người học về dạy học theo định hướng năng lực còn chung chung, mơ hồ.
1.2 Hoàn cảnh cụ thể của môn học
- Trên thực tế, năng lực sử dụng tiếng Việt nói chung của học sinh phổ thông vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu xã hội. Tình trạng nói sai, viết sai, diễn đạt vụng vẫn tồn tại tương đối phổ biến. 
- Khả năng nhận diện và sửa lỗi trong quá trình viết văn đặc biệt là văn miêu tả của học sinh lớp 6 còn hạn chế. 
2. Điều kiện, thời gian, đối tượng áp dụng sáng kiến
- Điều kiện áp dụng sáng kiến: GV có ý thức phát hiện và sửa lỗi cho HS. Tiết học nên chuẩn bị máy chiếu, camera vật thể.
- Thời gian áp dụng sáng kiến: Trong suốt năm học
- Đối tượng áp dụng sáng kiến: Học sinh lớp 6 ( có thể mở rộng cho tất cả học sinh THCS)
3. Nội dung sáng kiến
3.1. Tính mới, tính sáng tạo của sáng kiến
- Sáng kiến đã tập trung giúp giáo viên và học sinh thấy rõ được tầm quan trọng của năng lực sử dụng từ ngữ trong quá trình dạy học văn bản điều này thường bị coi nhẹ trong cấu trúc chương trình hiện hành ( chương trình thiên về cung cấp lý thuyết hơn là khả năng thực hành vận dụng)
- Nếu trong chương trình hiện hành việc nhận diện và sửa lỗi dùng từ đến lớp 8 mới được quan tâm và dành số tiết ít ỏi thì sáng kiến này cung cấp một cách có hệ thống các lỗi thường gặp trong quá trình tạo lập văn bản miêu tả và qui trình cũng như biện pháp sửa lỗi sử dụng từ ngữ một cách cụ thể cho từng trường hợp, giúp nâng cao năng lực sử dụng từ ngữ, từ đó nâng cao chất lượng bài văn miêu tả của HS lớp 6.
3.2 Khả năng áp dụng
- Các biện pháp đưa ra trong sáng kiến có thể được sử dụng linh hoạt ở các khâu, các phần của bài dạy trong các tiết Ngữ văn đặc biệt trong phân môn tập làm văn ( phần kiến thức về văn miêu tả).
- Áp dụng trong dạy học văn miêu tả ngữ văn 6 và một số tiết ở ngữ văn 8,9. Nó được thực hiện ở trong giờ trả bài tập làm văn, và trong phần luyện tập của các tiết tìm hiểu về văn miêu tả, cách làm, luyện nói, phương pháp tả cảnh, tả người
3.3. Lợi ích thiết thực của sáng kiến
- Trong các giờ học này, khi được sáng kiến cung cấp hệ thống các lỗi dùng từ thường gặp của HS, giáo viên dễ dàng nhận biết các lỗi sử dụng từ ngữ của các em, từ đó có thể tạo tình huống và đưa ra các biện pháp sửa lỗi cho HS.
- Từ sáng kiến này giáo viên sẽ chú ý nhiều hơn đến việc giúp học sinh sử dụng từ ngữ trong những tình huống cụ thể chứ không dừng lại ở việc cung cấp kiến thức đơn thuần. Học sinh được làm, được thay đổi, được lựa chọn các từ ngữ chuẩn mực cho bài văn của mình để từ đó làm phong phú vốn từ vựng của bản thân.
4. Khẳng định giá trị, kết quả đạt được của sáng kiến
* Với giáo viên: Hệ thống được các lỗi dùng từ thường gặp của HS, có quy trình và biện pháp sử lý lỗi dùng từ đó một cách cụ thể, hợp lý.
* Với học sinh: Giá trị của sáng kiến nằm ở chỗ phát triển năng lực sử dụng từ ngữ cho HS qua những tình huống phát hiện và sữa lỗi thực tế. Nâng cao chất lượng bài văn miêu tả của học sinh. Năng lực giao tiếp được cải thiện đáng kể.
5. Đề xuất kiến nghị: - Chương trình mới cần tăng cường thời gian thực hành vận dụng từ ngữ vào trong các tình huống cụ thể. 
- Giáo viên cần có sự chuẩn bị bài dạy chu đáo, luôn có ý thức rèn năng lực sử dụng ngôn ngữ cho học sinh. 
- HS cần xây dựng thói quen nói đúng, viết đúng, giữ gìn sự trong sáng của Tiếng Việt. 
MÔ TẢ SÁNG KIẾN
1.Hoàn cảnh nảy sinh sáng kiến
1.1. Hoàn cảnh chung
Chương trình giáo dục định hướng phát triển năng lực nay còn gọi là dạy học định hướng kết quả đầu ra được bàn đến nhiều từ những năm 90 của thế kỷ 20 và ngày nay đã trở thành xu hướng giáo dục quốc tế. Giáo dục định hướng phát triển năng lực nhằm mục tiêu phát triển năng lực người học.Giáo dục định hướng năng lực nhằm đảm bảo chất lượng đầu ra của việc dạy học, thực hiện mục tiêu phát triển toàn diện các phẩm chất nhân cách, chú trọng năng lực vận dụng tri thức trong những tình huống thực tiễn nhằm chuẩn bị cho con người năng lực giải quyết các tình huống của cuộc sống và nghề nghiệp. Chương trình này nhấn mạnh vai trò của người học với tư cách chủ thể của quá trình nhận thức.
Thực tiễn đổi mới giáo dục ở nhiều quốc gia trong vài thập niên gần đây khẳng định cách xây dựng chương trình (CT) theo định hướng phát triển năng lực là xu hướng tất yếu, đáp ứng yêu cầu giáo dục và đào tạo con người trong bối cảnh khoa học và công nghệ phát triển với tốc độ chưa từng có và nền kinh tế tri thức đóng vai trò ngày càng quan trọng đối với mọi quốc gia.
1.2 Hoàn cảnh cụ thể của môn học
 CT và SGK Ngữ văn hiện hành đã chú trọng kết hợp việc cung cấp lí thuyết với thực hành. Khả năng ứng dụng các kiến thức lí thuyết về Tiếng Việt, về Văn học và tập làm văn ...vào thực tiễn sử dụng ngôn ngữ trong đời sống cũng như trong quá trình tạo lập văn bản, về cơ bản đã được quan tâm nhiều trong quá trình xây dựng CT và SGK, song, trên thực tế, các kĩ năng sử dụng tiếng Việt nói chung của học sinh phổ thông vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu xã hội. Tình trạng nói sai, viết sai, diễn đạt không đúng với suy nghĩ, khó khăn trong việc đạt được mục đích giao tiếp... vẫn tồn tại, nếu không muốn nói là còn tương đối phổ biến.  
 Khả năng nhận diện và sửa lỗi trong quá trình viết văn đặc biệt là văn miêu tả của học sinh lớp 6 còn hạn chế. 
 2. Cơ sở lí luận: 
Khi xác định các nhóm năng lực cần hình thành và phát triển ở học sinh phổ thông, đã chia năng lực thành hai nhóm: các năng lực chung và các năng lực chuyên biệt. Các năng lực chung gồm: nhóm năng lực làm chủ và phát triển bản thân (năng lực tự học, năng lực giải quyết vấn đề, năng lực tư duy, năng lực tự quản lí); nhóm năng lực về quan hệ xã hội (năng lực giao tiếp, năng lực hợp tác) và nhóm năng lực công cụ (năng lực sử dụng công nghệ thông tin và truyền thông, năng lực sử dụng ngôn ngữ, năng lực tính toán) .Như vậy, năng lực sử dụng ngôn ngữ thuộc nhóm năng lực công cụ. 
Các nhà khoa học và sư phạm đánh giá rất cao vai trò của từ ngữ đối với sự phát triển năng lực tư duy của học sinh. Vốn từ của mỗi người được hình thành ngay từ khi chưa đến trường qua lời nói của cha mẹ và của những người xung quanh nhưng thực sự hoàn thiện và phong phú hơn trong môi trường giáo dục, đặc biệt là thông qua bộ môn Ngữ Văn. Nhờ có các hoạt động của môn học này mà vốn từ của các em không ngừng được bổ sung và hoàn thiện và cũng qua quá trình dạy- học Ngữ văn ta nhận ra những hạn chế trong cách sử dụng từ ngữ của học sinh.
 Có thể nói quá trình tạo lập văn bản nói riêng, văn miêu tả nói chung có mối liên hệ mật thiết với vốn từ và kĩ năng dùng từ của học sinh. Văn miêu tả là loại văn nhằm giúp người đọc, người nghe hình dung những đặc điểm, tính chất nổi bật của một sự vật, sự việc, con người, phong cảnh...làm cho những cái đó như hiện lên trước mắt người đọc, người nghe. 
Theo Đào Duy Anh trong Hán văn từ điển: “ Miêu tả là lấy nét vẽ hay câu văn để biểu hiện cái chân tướng của sự vật. Như vậy văn miêu tả hướng tới
 “ chân tướng của sự vật” là hướng tới cái bản chất, cái cốt lõi của sự vật. Do đó mục đích của văn miêu tả là nhận biết thế giới xung quanh, nhận biết xã hội, nhận biết người và vật...
	Trong chương trình Ngữ văn lớp 6 văn miêu tả chiếm một vị trí đặc biệt quan trọng đòi hỏi học sinh khi viết cần vận dụng kiến thức tổng hợp của các môn học cộng với vốn sống thực tế, có kĩ năng quan sát cùng khả năng diễn đạt, dùng từ chuẩn xác để mọi người có thể hình dung, tưởng tượng được về đối tượng được miêu tả. Nhà văn Bùi Hiển đã nhận xét: “ Miêu tả giỏi là khi đọc những gì chúng ta viết, người đọc như thấy những cái đó như hiện ra trước mắt mình: một con người, một con vật, một dòng sông...Người đọc còn có thể ghi được cả tiếng nói, tiếng kêu, nước chảy. Thậm chí còn ngửi thấy được mùi mồ hôi, mùi sữa, mùi hương hoa hay mùi rêu, mùi ẩm mốc...”.
 	Việc lựa chọn từ ngữ trong văn miêu tả là yêu cầu hết sức quan trọng, đòi hỏi phải được đặt ra một cách nghiêm túc. Muốn làm tốt yêu cầu này, người viết trước hết phải có một vốn từ phong phú. Vấn đề tích luỹ cần phải được tiến hành thường xuyên và dưới nhiều hình thức. Tất nhiên có vốn từ phong phú chưa hẳn đã thành công mà điều quan trọng là người viết phải có sự lựa chọn tinh tường, sao cho giữa một hệ thống các từ đồng nghĩa, gần nghĩa, đồng âm, gần âm,...có thể lựa chọn được từ ngữ phù hợp nhất, chính xác nhất. Nếu mắc lỗi dùng từ ngữ trong quá trình miêu tả sẽ không làm nổi bật được đối tượng cần miêu tả, không phản ánh đúng “ chân tướng của sự vật” “hướng tới cái bản chất, cái cốt lõi của sự vật”- như cách nói của Đào Duy Anh.
3. Thực trạng của vấn đề
Trong những năm gần đây, nhà trường chúng ta đã có nhiều cố gắng trong việc dạy cho học sinh các kĩ năng giao tiếp và tạo lập văn bản. Trong đó kĩ năng miêu tả, kĩ năng dùng từ cũng rất được chú trọng. Tuy nhiên từ thực tế đứng lớp tôi thấy nhiều học sinh của chúng ta rất ngại viết văn miêu tả và trong giao tiếp ít khi miêu tả về hiện thực cuộc sống một cách đến nơi đến chốn để người nghe có thể hình dung sự vật, sự việc, con người một cách cụ thể, rõ ràng. Chất lượng các bài văn miêu tả của học sinh phần nhiều còn rất hạn chế. 
Để đánh giá đúng thực trạng của vấn đề này, tôi đã tiến hành điều tra trong nhiều năm, thông qua việc trao đổi trực tiếp với giáo viên bộ môn, với học sinh và trên chính bài làm của học sinh tôi trực tiếp giảng dạy.
 Tôi đã tiến hành thu thập ý kiến của nhiều giáo viên dạy ngữ văn 6 về nguyên nhân chất lượng bài văn miêu tả của học sinh lớp 6 còn hạn chế, kết quả điều tra 80% giáo viên cho rằng nguyên nhân chính dẫn đến học sinh chưa làm tốt bài văn miêu tả là do chưa có kĩ năng quan sát và chưa biết cách dùng từ, số còn lại thiên về nguyên nhân học sinh thiếu vốn sống và chưa thật sự chú tâm vào việc học và một số nguyên nhân khác.
Điều tra 22 học sinh lớp tôi trực tiếp đứng lớp với câu hỏi trắc nghiệm: 
Những nguyên nhân nào khiến các em khó viết văn miêu tả?
Chưa có kiến thức về văn miêu tả
Có ít thời gian để quan sát thực tế
Rất “ bí” từ khi viết văn
Tất cả các ý kiến trên.
 Kết quả 57% lựa chọn đáp án (c): rất bí từ khi diễn đạt; 31% chọn đáp án (b): có ít thời gian để quan sát thực tế, số còn lại là đáp án (a), (d) một số em nêu ý kiến riêng. Như vậy, có nhiều nguyên nhân dẫn đến hiện tượng này. 
Trước hết ta thấy vốn sống thực tế của các em còn rất hạn chế. Nhiều học sinh nông thôn chưa từng được ra thành phố, học sinh miền núi chưa từng được đến biển...Nhiều HS thành phố chưa hề được nghe hay nhìn thấy một con gà đang gáy, con trâu đang cày ruộng, được quan sát cánh đồng lúa xanh mướt đương thì con gái, hay dòng sông quê đỏ nặng phù sa, con đê làng uốn cong trong nỗi nhớ...Vì thế khi làm bài nhiều học sinh không nắm được đối tượng mình đang tả, dẫn đến tả không chân thực, tả rất ngô nghê. Chẳng hạn như câu: Đêm đầu tháng mặt trăng tròn vành vạnh nhìn rõ chú Cuội đang ngồi dưới gốc đa ( đêm đầu tháng thì lấy đâu ra trăng tròn mà nhìn thấy cây đa, chú Cuội. Có trường hợp HS đọc đề xong không biết mình cần viết những gì và viết như thế nào, cái gì viết trước, cái gì viết sau...
Một nguyên nhân khác cũng hết sức quan trọng là xuất phát từ vốn từ nghèo nàn của các em và khả năng dùng từ còn hết sức hạn chế. Những ngây ngô trong các bài văn miêu tả của các em phần nhiều xuất phát từ việc dùng từ không chính xác dẫn đến bài văn miêu tả trở nên lủng củng, khó hiểu và không đạt được mục đích như mong muốn. Nhận thấy đây là một trong những nguyên nhân quan trọng nhất ảnh hưởng đến kĩ năng miêu tả của HS, tôi đã tiến hành điều tra tình hình cụ thể bởi qua điều tra ta sẽ thấy được thực trạng mà đề ra những biện pháp thích hợp giúp học sinh khắc phục được hạn chế đó. 
Ngay từ đầu năm học lớp 6, tôi đã có ý thức tìm hiểu để nắm rõ trình độ của từng học sinh. Qua các câu hỏi vấn đáp trên lớp, qua các bài tập về nhà và đặc biệt là qua các bài viết văn miêu tả, tôi đã nắm bắt được các lỗi dùng từ phổ biến và lỗi cá biệt của học sinh. 
Để chính xác hơn, tôi cho học sinh quan sát một đoạn văn miêu tả khu vườn sau cơn mưa trong đó đã xoá đi một số từ , yêu cầu HS tự tìm từ thích hợp để điền vào chỗ trống ( 9 từ tương đương với 9 chỗ trống). Cụ thể 
“ Nắng đã lên. Sau một đợt mưa (...) kéo dài, chút nắng (...)ấy thật đáng quí biết bao. Bầu trời không còn khoác chiếc áo choàng trắng (...) nữa. Những khoảng xanh thẫm trên vòm cao loang ra rất nhanh, phủ kín tạo thành một chiếc áo khoác mới tinh. Nổi lên trên nền trời xanh (...) đó là những cụm mây trắng muốt trôi (...). Mặt trời ló ra. Nắng (...). Rồi nắng (...) dần lên. Trong khu vườn nhỏ, chim chóc gọi nhau (...) nghe vang động và (...) biết bao”
Kết quả thu được rất đáng báo động. Vốn từ ngữ của học sinh quá ít học sinh tìm được nhiều nhất cũng chỉ được 5 từ ngữ, có học sinh chỉ tìm được có 3 từ, còn lại là dùng sai hoặc chưa tìm được từ thích hợp. Như vậy số từ ngữ mà học sinh có không đủ dùng trong giao tiếp hàng ngày chưa nói đến việc tạo lập văn bản miêu tả theo đúng yêu cầu.
 Chính từ những kết quả khảo sát trên tôi thấy đây là thực trạng rất đáng lo ngại . Vậy nên vấn đề đặt ra là làm thế nào để hạn chế đến mức thấp nhất việc dùng sai từ ngữ trong bài văn miêu tả nói riêng và trong cả quá trình tạo lập văn bản nói chung cho học sinh lớp 6 - lứa tuổi mới lớn đang hình thành và phát triển mọi mặt trong đó có sự hình thành và phát triển ngôn ngữ - công cụ đặc biệt cần thiết để phát triển tư duy. Dạy và rèn cách dùng chuẩn từ ngữ cho học sinh lớp 6 từ chính bài văn miêu tả là bước chuyển hợp lí nhất, làm nền tảng vững chắc cho các dạng văn bản khác, dẫn đến hạn chế tối đa việc mắc lỗi dùng từ ở trường THCS và cả ở bậc học trên nữa.Chính vì vậy trong quá trình dạy học bằng kinh nghiệm và ý thức nghề nghiệp tôi rất chú ý đến việc phát hiện và khắc phục lỗi dùng từ cho học sinh ngay trong bài văn miêu tả- một thể loại gần gũi nhất với học sinh lớp 6.
4. Các giải pháp, biện pháp thực hiện
Như đã nói ở trên một trong những nguyên nhân chính dẫn đến chất lượng bài văn miêu tả của học sinh còn kém bởi học sinh chưa có ý thức cũng như chưa có kĩ năng trong cách dùng từ. Việc phát hiện, phân tích và chữa lỗi dùng từ trong bài làm của HS là hết sức cần thiết. Việc làm này một mặt giúp học sinh loại bỏ lỗi dùng từ trong bài văn của mình mặt khác giúp học sinh nâng cao ý thức về việc dùng từ hình thành kĩ năng dùng từ đúng, hay qua đó nâng cao chất lượng bài văn miêu tả. Có thể nói, lỗi dùng từ trong bài văn miêu tả của HS lớp 6 rất phong phú và đa dạng. Để khắc phục được tình trạng này, trước hết mỗi giáo viên chúng ta cần nắm vững và hệ thống được các lỗi dùng từ cơ bản, thường gặp của học sinh và có cách chữa cụ thể, hợp lí.
4.1. XÁC ĐỊNH MỘT SỐ LỖI DÙNG TỪ CƠ BẢN VÀ CÁCH CHỮA.
	4.1.1. Lỗi về nghĩa của từ.
	Nội dung ý nghĩa là một bình diện của từ. Nó là cái được biểu đạt của mỗi từ. Do đó yêu cầu đầu tiên khi dùng từ trong bài văn miêu tả là phải dùng từ cho đúng với ý nghĩa của từ. Điều đó có nghĩa là từ được dùng phải biểu hiện được chính xác nội dung miêu tả cần thể hiện. Đối với học sinh lớp 6 việc nắm nghĩa của từ còn nhiều hạn chế cho nên các em thường mắc lỗi dùng từ sai nghĩa trong bài văn miêu tả. Trong đó phổ biến nhất là lỗi thường xảy ra giữa các từ gần nghĩa, gần âm hoặc có yếu tố cấu tạo chung. Tuy có phần giống nhau về nghĩa hoặc cả yếu tố cấu tạo, nhưng nghĩa của các từ đó vẫn có sự khác nhau và cần được sử dụng khác nhau.
 VD1 : Dáng người của anh thanh niên khá cao ráo.
 VD2 : Trên bàn học, em đặt một lọ hoa làm cho căn phòng càng thêm linh động
VD3 : Lá bàng màu xanh thẫm, to bằng cái tai trâu, mọc lẫn lộn trên thân cây
Các câu văn đều mắc lỗi dùng từ sai nghĩa. Để chữa lỗi này, cần phải thay thế những từ dùng sai đó bằng các từ ngữ có khả năng thể hiện chính xác nội dung, ý nghĩa mà người viết muốn diễn đạt. Ở ví dụ 1, từ dùng sai là từ cao ráo, vì cao ráo có nghĩa là cao và khô, không bị ẩm thấp. Do đó, từ này chỉ dùng cho địa điểm và nơi chốn ( hoặc nếu có dùng trong tả người thì chỉ dùng trong khẩu ngữ). Để miêu tả hình dáng anh thanh niên nên thay bằng từ cao lớn. Tương tự ở VD2, từ linh động có nghĩa là ở trạng thái động, có sự chuyển biến khéo léo tuỳ theo hình thế, với ý câu văn miêu tả của câu văn ( miêu tả căn phòng có sức sống, với nhiều dáng vẻ khác nhau ) thì cần thay từ linh động bằng sinh động . Ở VD3, người viết muốn miêu tả lá cúc mọc trên thân cây không thẳng hàng không cùng một chỗ thì phải dùng từ so le mới đúng chứ không dùng từ lẫn lộn ( vì lẫn lộn có nghĩa là lẫn vào nhau)
4.1.2. Lỗi về kết hợp từ.
Các từ khi được dùng trong câu văn,trong bài miêu tả, luôn có mối quan hệ về ngữ nghĩa và ngữ pháp. Chúng nằm trong các mối quan hệ với các từ đi trước và các từ đi sau. Vì thế do không nắm chắc được nghĩa, hoặc không chú ý đến các mối quan hệ về nghĩa và ngữ pháp giữa các từ dùng trong câu nên học sinh đã kết hợp từ không đảm bảo sự tương tác với nhau, không ăn khớp với nhau.
VD1 : Mỗi khi ba tiếng tiếng trống đổ hồi đều đặn, chúng em lại nhanh chân xếp hàng vào lớp.
VD2 : Cô có hàm răng trắng, thẳng tắp.
Ở VD1 ta không thể dùng từ đổ một hồi để miêu tả 3 tiếng trống vì nghĩa của chúng không tương hợp với nhau. Hồi là nhiều âm thanh kế tiếp nhau trong một thời gian nhất định, chỉ có 3 tiếng trống không thành hồi được. Vì thế cần thay thế từ đổ hồi bằng từ ngữ khác, VD như vang lên..., ở VD2, thẳng tắp nghĩa là thẳng thành một đường dài, dùng để miêu tả hàm răng là không hợp lí nên thay bằng từ đều đặn.Như vậy để tránh lỗi về kết hợp từ giáo viên cần lưu ý HS thật chú ý đến nghĩa của từ và ngữ cảnh mà từ xuất hiện, đặt chúng trong mối quan hệ với những từ ngữ trong cùng câu văn, đoạn văn. Nếu cảm thấy chưa thật chắc chắn vào sự lựa chọn của mình nên tra từ điển Tiếng Việt để tìm được những từ phù hợp nhất.
4.1.3. Lỗi dùng thừa từ, lặp từ.
	Dùng thừa từ, lặp từ là lỗi học sinh thường mắc phải trong bài văn miêu tả. Nguyên nhân của lỗi này là do HS không nắm chắc nghĩa của từ, không nắm chắc mô hình câu. Đồng thời do nghèo về vốn từ, khả năng huy động và lựa chọn từ hạn chế.
	VD1 : Khi trăng lên, con sông quê tôi trở nên thơ mộng hơn biết bao.
	VD2 : Người bạn em yêu quí nhất hơn cả là bạn Phương.
	VD3 : Trong số các quyển sách của em, quyển sách mà em thích nhất là quyển sách Ngữ văn.
	Để chữa lỗi dùng thừa từ và lặp từ trong các câu văn trên, cần loại bỏ từ ngữ dùng thừa, dùng lặp trong câu văn đó. Ở VD1 cần bỏ một trong 2 từ hơn hoặc biết bao, tuy nhiên nên bỏ từ hơn giữ lại từ biết bao giúp câu miêu tả hay và truyền cảm. Ở VD3, quyển sách bị lặp 3 lần, do đó cần bỏ bớt từ này đi để câu văn được gọn hơn. ( VD : Trong số các quyển sách của mình, em thích nhất là quyển Ngữ Văn). 
	Tuy nhiên để khắc phục được triệt để lỗi dùng thừa từ, lặp từ giáo viên cần giúp HS phân biệt rõ ràng 3 hiện tượng ngôn ngữ : Phép lặp, lỗi lặp và điệp ngữ. Có thể ở lớp 6 HS chưa được tìm hiểu hết cả 3 hiện tượng ngôn ngữ này, nhưng thông qua một số bài tập đơn giản giáo viên nên cung cấp cho các em những kiến thức và kĩ năng cơ bản để nhận biết .
4.1.4. Lỗi dùng từ không đúng phong cách .
	Mỗi loại văn bản có đặc điểm riêng về ngôn ngữ và cách dùng từ. Vì thế có những từ chỉ thích hợp hoặc chỉ được dùng trong một phong cách ngôn ngữ nào đó. Do chưa có ý thức chuẩn mực về phong cách của văn miêu tả, nên học sinh đã sử dụng những từ ngữ thuộc phong cách ngôn ngữ nói vào trong bài văn miêu tả. VD1 : Vào buổi sáng, không khí trong công viên cực kì trong lành.
	 VD2 : Nhận được chiếc bút từ tay bố, em vui ơi là vui.
 Trong các câu văn trên, các từ cực kì, vui ơi là vui không thể sử dụng trong bài văn miêu tả, do đó cần thay bằng các từ khác cho phù hợp hơn, chẳng hạn như: vô cùng, rất vui... 
4.1.5. Lỗi dùng từ thiếu hình ảnh, cảm xúc . 
	Văn miêu tả là loại văn giàu hình ảnh và cảm xúc. Vì thế trong bài văn miêu tả yêu cầu dùng từ đúng là chưa đủ mà còn phải dùng từ hay. Bởi khi dùng từ đúng lúc, đúng chỗ, những từ ngữ gợi tả, gợi cảm, những hình ảnh so sánh, nhân hoá,... sẽ làm cho đối tượng miêu tả được hiện ra một cách cụ thể, sinh động, đồng thời cũng bộc lộ được tình cảm, cảm xúc của người viết, cũng như khơi gợi được tình cảm, cảm xúc ấy ở người đọc. Cái đích của người viết văn miêu tả là làm thế nào để phác họa được những bức tranh thiên nhiên, bức tranh sinh hoạt hoặc chân dung của con người một cách cụ thể, sống động và có hồn như nó vốn có trong cuộc sống. Chính vì thế trong bài văn miêu tả, nhiều HS dùng từ đúng nhưng vẫn mắc lỗi, đó là lỗi dùng từ không hay (còn gọi là lỗi dùng từ thiếu hình ảnh, cảm xúc)
	VD1: Chiếc bút có màu đen.
	VD2:Những bông hoa trong vườn toả hương rất thơm
	VD3: Phía chân núi, mặt trời màu đỏ đang từ từ lên
	Những câu văn trên đây nếu xét một cách cô lập, tách khỏi bài văn miêu tả thì hoàn toàn bình thường cả về cấu tạo ngữ pháp cũng như về ý nghĩa. Tuy nhiên khi đặt trong bài văn miêu tả, mới thấy chúng chưa thật hay, chưa hấp dẫn và truyền cảm. 
Để chữa lỗi này cần phải thay thế vào vị trí của những từ ngữ thiếu hình ảnh và cảm xúc bằng các từ láy, tính từ gợi tả, gợi cảm hoặc các biện pháp so sánh, nhân hoá...thích hợp. Đối với câu ở VD1 có thể thay từ đen bằng đen nhánh; VD 2 có thể thay bằng thơm ngát hoặc ngào ngạt; VD3 cần phối hợp hình ảnh so sánh và nhân hoá: Phía chân núi, ông Mặt Trời như một quả cầu lửa khổng lồ đang nhô lên...Cách tốt nhất là cần hướng dẫn HS lựa chọn tinh tường, sao cho giữa một hệ thống các từ phải luôn có thói quen tìm các từ gợi hình, biểu cảm. Muốn làm nổi bật hình ảnh của đối tượng thì chú ý nhiều đến hệ thống từ tượng hình, muốn làm nổi bật không khí của cảnh thì dùng hệ thống của từ tượng thanh, rồi tích cực sử dụng các biện pháp nghệ thuậtcó như vậy bài văn miêu tả mới có sức thuyết phục. 
4.2.ĐỀ XUẤT QUI TRÌNH PHÁT HIỆN VÀ CHỮA LỖI.
	Để hoạt động chữa lỗi dùng từ đạt hiệu quả, giáo viên cần xây dựng một qui trình chữa lỗi cụ thể và phù hợp, linh hoạt và mềm dẻo vì đối tượng của chúng ta là học sinh lớp 6. Qui trình phát hiện và chữa lỗi cần theo các bước sau đây :
4.2.1.Thống kê, phân loại lỗi dùng từ trong bài văn miêu tả. 
Thao tác này cần được làm cẩn thận trong quá trình chấm bài. Giáo viên cần có một bảng thống kê về các lỗi cơ bản thường gặp ( như đã nêu ở mục 1), với các ví dụ cụ thể, điển hình, xuất hiện phổ biến trong bài văn của các em. Bảng thống kê của giáo viên cần chi tiết : 
Tên học sinh
Lỗi mắc phải
Ví dụ
Nguyên nhân
Cách chữa
Đây là công việc không khó nhưng mất rất nhiều thời gian, đòi hỏi giáo viên phải thật sự kiên trì. Nếu làm tốt ở các bài đầu, các bài sau học giáo viên sẽ nhàn hơn bởi số lỗi mà học sinh mắc phải sẽ giảm đi từ chính sự kiên trì của giáo viên trong thời gian đầu vất vả.
4.2.2. Nắm bắt thật sát nội dung định miêu tả của học sinh.
	Muốn phát hiện và sửa chữa chính xác các lỗi dùng từ, cần nắm bắt và lĩnh hội thật sát nội dung định miêu tả của người viết. Để đạt được điều này, nên đặt từ đang xét trong câu, trong đoạn văn, thậm chí trong cả bài văn miêu tả. Do đó cần tìm tòi và cân nhắc, thật thận trọng và kĩ lưỡng để lựa chọn được những từ ngữ thích hợp. Trong quá trình chấm bài giáo viên nên dành thời gian trao đổi với học sinh cho các em cơ hội để lí giải những từ ngữ mà các em đã sử dụng.
4.2.3. Tìm ra nguyên nhân sai
	Như ta đã biết, các lỗi dùng từ xuất phát từ nhiều nguyên nhân khác nhau, khi thống kê phân loại lỗi, nắm được nội dung định miêu tả của HS giáo viên cần xác định chính xác nguyên nhân mắc lỗi dùng từ của HS như lỗi lặp từ, dùng từ không đúng nghĩa, nhầm lẫn giữa các từ gần âm, hay dùng sai phong cách...Giáo viên cần xác định câu văn đã mắc lỗi nào trong các lỗi cơ bản nêu trên hoặc có thể mắc nhiều lỗi trong cùng một câu để có cách sửa lỗi thích hợp. 
4.2.4. Chữa lỗi.
Thao tác cơ bản được sử dụng để chữa lỗi dùng từ là lựa chọn và thay thế. Do đó cần lựa chọn được từ ngữ thích hợp để thay thế vào vị trí của từ dùng không đúng hoặc không hay. Chữa lỗi phải đảm bảo được nội dung của bài làm. Cũng nên tránh cách chữa làm thay đổi quá nhiều làm khác biệt cả nội dung và cách diễn đạt mà học sinh sử dụng. 
Không nên chọn những câu văn chứa quá nhiều lỗi dùng từ, bởi những câu như vậy sẽ làm cho việc chữa lỗi ở lớp rất phức tạp, khiến cho học sinh khó phát hiện ra nguyên nhân mắc lỗi cũng như khó tìm ra cách chữa.
Có thể nói chữa lỗi dùng từ là một trong những biện pháp có tác dụng rất tích cực đối với việc rèn luyện kĩ năng dùng từ và nâng cao chất lượng bài văn miêu tả cho HS lớp 6. Giáo viên cần căn cứ vào bài văn miêu tả cụ thể của HS để lựa chọn những lỗi dùng từ cần chữa sao cho phù hợp với HS và đạt kết quả cao nhất. Nên để học sinh đưa ra cách khắc phục hợp lí trước khi giáo viên đưa ra quyết định cuối cùng.
4.3. MỘT SỐ ĐIỂM CẦN LƯU Ý TRONG QUÁ TRÌNH PHÁT HIỆN VÀ CHỮA LỖI DÙNG TỪ TRONG BÀI VĂN MIÊU TẢ CỦA HỌC SINH.
	Để việc phát hiện và chữa lỗi dùng từ của HS trong các bài văn miêu tả đạt hiệu quả, cần tuân thủ một số nguyên tắc sau đây:
4.3.1. Các lỗi được phát hiện và sửa chữa phải chính xác và có dẫn chứng cụ thể. 
 Trong quá trình dạy học, giáo viên cần chỉ chính xác các lỗi sai trong bài làm của HS bằng mực đỏ. Đồng thời cũng yêu cầu HS ghi lại các từ mà các em đã sử dụng sai trong các bài làm của mình, trao đổi với bạn bè. Việc phát hiện và sửa chữa chính xác, sẽ cho các em những kinh nghiệm bổ ích để không mắc lại ở các bài làm khác.
4.3.2. Giáo viên cần khuyến khích để HS tự phát hiện và chữa lỗi dùng từ của mình. 
Giáo viên có thể chấm bài sớm, trả bài trước để học sinh nghiên cứu lại các lỗi giáo viên đã chỉ ra, tự mình tìm ra nguyên nhân và cách sửa chữa hợp lí. Tự tìm ra lỗi sai của mình sẽ giúp HS nhớ lâu hơn, nếu HS chưa tự mình phát hiện được, giáo viên có thể nêu một số câu hỏi gợi mở để giúp các em tự tìm ra lỗi trong bài làm của mình. Sau đó sẽ hướng dẫn các em cách chữa và khuyến khích HS có thể tìm thêm các từ khác ngoài từ mà cô giáo đã đề xuất bằng cách tra từ điển để biết ý nghĩa thích hợp.
4.3.3.Không dùng biện pháp phủ định, trách phạt. Đánh giá lỗi sai của các em nên coi trọng lời nhận xét mang tính khích lệ, hơn là điểm số. 
GV cần quan sát bầu không khí của lớp trong tiết trả bài và những phản ứng của các em về lỗi dùng từ và các từ được sửa, tạo cho các em có cơ hội được bộc lộ suy nghĩ để biết rõ hơn vì sao các em lại dùng sai, dùng chưa hay. Không nên nhận xét nặng lời, chì chiết làm các em cảm thấy nặng nề, xấu hổ dẫn đến giờ trả bài thành giờ “ tố lỗi”. Nhận xét cụ thể, chi tiết, thấu tình đạt lí, gợi ý cách chữa hợp lí sẽ làm cho các em “ tâm phục, khẩu phục” . 
Lời nhận xét của giáo viên giúp học sinh biết được điểm mạnh, điểm yếu, chỗ sai, nguyên nhân mắc lỗi, cách sửa chữa từ đó có kế hoạch tự hoàn thiện rèn kĩ năng dùng từ, làm giàu vốn từ của mình để nâng cao chất lượng bài văn miêu tả như là một kĩ năng sống quan trọng trong giao tiếp hằng ngày. Thực tế các bài viết văn của HS hiện nay rất cần những lời phê thấu tình đạt lí. Nhất là đối với HS lớp 6, các em vừa chập chững bước vào trường THCS, giáo viên chúng ta cần thật mềm dẻo và linh hoạt trong những lời phê của mình để khích lệ sự tiến bộ của HS qua từng bài viết.
4.4. MỘT SỐ GIẢI PHÁP QUAN TRỌNG CẦN LÀM HẠN CHẾ LỖI DÙNG TỪ CỦA HỌC SINH TRONG BÀI VĂN MIÊU TẢ
Phát hiện lỗi và sửa lỗi dùng từ cho HS việc rất quan trọng song quan trọng hơn là làm thế nào để học sinh hạn chế nhất việc mắc lỗi dùng từ trong bài văn miêu tả nói riêng và trong viết văn nói chung, bởi việc phát hiện và chữa lỗi dù sao cũng là giải pháp tình thế. Qua thực tế đứng lớp, nghiên cứu, khảo sát, chúng tôi có nhận định rằng: Để viết được những câu văn miêu tả có nghĩa chính xác và giàu hình ảnh, giáo viên cần giúp học sinh được làm quen với từ - hiểu từ và sử dụng được từ - biết lựa chọn và sử dụng từ một cách linh hoạt trong mọi văn cảnh” để thực hiện được điều đó tôi thường sử dụng một số giải pháp sau đây:
4.4.1. Tích cực cung cấp vốn từ cho HS.
Việc lựa chọn từ ngữ trong văn miêu tả là yêu cầu quan trọng, đòi hỏi phải được đặt ra một cách nghiêm túc. Muốn làm tốt yêu cầu này thì người viết văn miêu tả trước hết phải có một vốn từ phong phú. Vấn đề tích lũy vốn từ cần được tiến hành thường xuyên và dưới nhiều hình thức: thông qua giao tiếp hằng ngày, thông qua quá trình đọc sách, đọc tài liệu tham khảo. Giáo viên phải chủ động trang bị cho các em một vốn từ phong phú. Muốn cung cấp vốn từ một cách trọn vẹn, chúng ta cần giải quyết những việc cụ thể sau:
- Lựa chọn và phân bố từ cần cung cấp một cách có cơ sở. Việc này đòi hỏi người giáo viên phải có tri thức tương đối khá về từ ngữ, luôn rèn luyện trình độ ngôn ngữ để lúc cần thiết có thể tự mình xây dựng những chủ đề phù hợp mà dạy cho học sinh về từ vựng.
- Thông qua các hoạt động dạy – học trong phân môn Tiếng Việt, việc cung cấp vốn từ cho học sinh cần phải được thực hiện triệt để giúp các em tích lũy được một số từ ngữ, biết sử dụng một cách hệ thống theo chủ đề.
4.4.2. Tích cực cung cấp nghĩa của từ:
Để giúp HS hiểu nghĩa của từ chính xác, việc đầu tiên giáo viên phải giúp HS nắm chắc kiến thức về giải nghĩa từ, lấy nghĩa của từ trong Từ điển làm kim chỉ nam. Nhưng trong quá trình giải nghĩa từ, giáo viên không thể máy móc đem toàn bộ các nghĩa đó để giải thích cho học sinh một cách ôm đồm mà phải linh động dựa vào văn cảnh để minh họa cho thích hợp.
Tuy nhiên, người giáo viên c

File đính kèm:

  • docsang_kien_kinh_nghiem_phat_trien_nang_luc_su_dung_tu_ngu_cho.doc