Sáng kiến kinh nghiệm Sử dụng Sơ đồ tư duy trong dạy học môn Sinh học THCS

1. Hoàn cảnh nảy sinh sáng kiến

Môn Sinh học là môn học đòi hỏi nhiều tư duy để suy luận và vận dụng thực tiễn, kiến thức môn học đa dạng phong phú. Để học tốt môn sinh học học sinh cần hiểu và nắm vững kiến thức lí thuyết và vận dụng linh hoạt, sáng tạo kiến thức lí thuyết đó vào giải các bài tập sinh học, giải thích các hiện tượng thực tế vận dụng kiến thức vào giải quyết các tình huống thực tiễn. 

       Thực trạng học sinh lâu nay thường máy móc, thụ động trong việc tiếp thu kiến thức bài học, chưa tích cực phát triển tư duy sáng tạo, thường các em học đâu quên đó. Hiện tượng học sinh không thuộc bài cũ, kiến thức lơ mơ ở trong đầu khá phổ biến. Để khắc phục được thực trạng này, tôi thiết nghĩ việc hướng dẫn cho học sinh sử dụng sơ đồ tư duy (SĐTD) để học tập là rất có hiệu quả.      Trước thực trạng này đòi hỏi giáo viên phải cải tiến phương pháp dạy học nhằm phát triển năng lực cho học sinh một trong những phương pháp dạy học đó là “ Sử dụng Sơ đồ tư duy trong dạy học môn Sinh học THCS”

doc 29 trang Anh Hoàng 27/05/2023 3900
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Sử dụng Sơ đồ tư duy trong dạy học môn Sinh học THCS", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Sử dụng Sơ đồ tư duy trong dạy học môn Sinh học THCS

Sáng kiến kinh nghiệm Sử dụng Sơ đồ tư duy trong dạy học môn Sinh học THCS
THÔNG TIN CHUNG VỀ SÁNG KIẾN
1. Tên sáng kiến: “ Sử dụng Sơ đồ tư duy trong dạy học môn Sinh học THCS ”
2. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến: Giải pháp tác nghiệp
3. Tác giả 
Họ và tên: Nguyễn Thị Thùy Dương Nữ
Ngày, tháng, năm sinh: 20/11/1988
Trình độ chuyên môn: Đại học sư phạm Sinh
Chức vụ, đơn vị công tác: Giáo viên - Trường THCS Hồng Đức
Điện thoại: 01652.519.800
4. Đơn vị áp dụng sáng kiến lần đầu: Trường THCS Hồng Đức, huyện Ninh Giang, tỉnh Hải Dương
Địa chỉ: Xã Hồng Đức, huyện Ninh Giang, tỉnh Hải Dương
Điện thoại: 0320.3760.779
 5. Các điều kiện cần thiết để áp dụng sáng kiến: 
 Giáo viên say mê, có lòng yêu nghề, có lòng nhiệt tình, sáng tạo trong công việc; Có tinh thần học hỏi
 Học sinh tích cực, có tinh thần hợp tác
 Có đủ các phương tiện phục vụ cho các hoạt động giáo dục
 6. Chủ đầu tư tạo ra sáng kiến: Trường THCS Hồng Đức – Ninh Giang – 
Hải Dương. 
 7. Thời gian áp dụng sáng kiến lần đầu: Năm học 2013 - 2014
TÁC GIẢ
(Ký, ghi rõ họ tên)
Nguyễn Thị Thùy Dương
XÁC NHẬN CỦA CƠ QUAN ĐƠN VỊ ÁP DỤNG SÁNG KIẾN
TÓM TẮT SÁNG KIẾN
1. Hoàn cảnh nảy sinh sáng kiến
Môn Sinh học là môn học đòi hỏi nhiều tư duy để suy luận và vận dụng thực tiễn, kiến thức môn học đa dạng phong phú. Để học tốt môn sinh học học sinh cần hiểu và nắm vững kiến thức lí thuyết và vận dụng linh hoạt, sáng tạo kiến thức lí thuyết đó vào giải các bài tập sinh học, giải thích các hiện tượng thực tế vận dụng kiến thức vào giải quyết các tình huống thực tiễn. 
 Thực trạng học sinh lâu nay thường máy móc, thụ động trong việc tiếp thu kiến thức bài học, chưa tích cực phát triển tư duy sáng tạo, thường các em học đâu quên đó. Hiện tượng học sinh không thuộc bài cũ, kiến thức lơ mơ ở trong đầu khá phổ biến. Để khắc phục được thực trạng này, tôi thiết nghĩ việc hướng dẫn cho học sinh sử dụng sơ đồ tư duy (SĐTD) để học tập là rất có hiệu quả. Trước thực trạng này đòi hỏi giáo viên phải cải tiến phương pháp dạy học nhằm phát triển năng lực cho học sinh một trong những phương pháp dạy học đó là “ Sử dụng Sơ đồ tư duy trong dạy học môn Sinh học THCS”
2. Điều kiện, thời gian, đối tượng áp dụng sáng kiến
2.1. Điều kiện áp dụng sáng kiến
 Giáo viên say mê, có lòng yêu nghề, có lòng nhiệt tình, sáng tạo trong công việc; Có tinh thần học hỏi.
2.2. Thời gian áp dụng sáng kiến. 
- Từ năm học 2013 - 2014. 
2.3. Đối tượng áp dụng sáng kiến: Học sinh bậc THCS.
3. Nội dung sáng kiến
 Với phương pháp sử dụng SĐTD trong giảng dạy từng bước giáo viên sẽ giúp học sinh tự mình phát hiện dần dần toàn bộ kiến thức bài học. Bắt đầu bằng những kiến thức tổng quát nhất - trọng tâm bài học - trung tâm bản đồ. Giáo viên giúp học sinh tái hiện những kiến thức lớn xoay quanh trọng tâm bài học, những ý nhỏ trong từng ý lớn cứ như vậy đến khi giờ học kết thúc cũng là lúc kiến thức tổng quát của bài học được trình bày một cách sáng tạo, sinh động trên sơ đồ. Không những cung cấp cho học sinh kiến thức tổng thể, sơ đồ tư duy còn giúp cho học sinh nhìn nhận đa chiều mọi mặt của vấn đề, từ đó đưa ra các ý tưởng mới, phát hiện mới, tìm ra sự liên kết, ràng buộc các ý tưởng trong bài, tức là tìm ra mạch lôgic của bài học. Sau khi hoàn thiện, học sinh nhìn vào sơ đồ là có thể thuyết trình lại được toàn bộ nội dung kiến thức bài học. 
4. Khẳng định giá trị, kết quả đạt được của sáng kiến
 Trước đây, giáo viên vẫn thường sử dụng sơ đồ để hệ thống kiến thức cho học sinh nhưng học sinh vẫn là người tiếp thu một cách thụ động. Với việc giảng dạy bằng SĐTD , nhất là cho học sinh tự phát huy khả năng sáng tạo của mình bằng cách tự vẽ, tự phân bố và thể hiện nội dung bài học qua sơ đồ sau đó yêu cầu các bạn khác bổ sung những phần còn thiếu. Kết thúc bài giảng, thay vì phải ghi chép theo cách truyền thống, học sinh có thể tự “vẽ” bài học theo cách hiểu của mình với nhiều màu sắc và hình ảnh khác nhau. Đến tiết học sau, chỉ cần nhìn vào sơ đồ, các em có thể nhớ được những phần trọng tâm của bài học. Sử dụng SĐTD trong dạy học mang tính khả thi cao vì có thể vận dụng được với bất kỳ điều kiện cơ sở vật chất nào của các nhà trường, có thiết kế trên giấy, bìa, bảng  bằng cách sử dụng bút chì màu, phấn màu hoặc cũng có thể thiết kế trên phần mềm SĐTD . Việc vận dụng SĐTD trong dạy học sẽ dần hình thành cho học sinh tư duy mạch lạc, có cách nhìn vấn đề một cách hệ thống, khoa học.
5. Đề xuất kiến nghị để thực hiện áp dụng hoặc mở rộng sáng kiến.
 Giáo viên tăng cường công tác nghiên cứu, vận dụng sáng tạo các hoạt động dạy học môn Sinh học THCS. Mạnh dạn áp dụng sơ đồ tư duy trong quá trình giảng dạy.
 Nhà trường tạo điều kiện thuận lợi hơn nữa cho giáo viên có thời gian đi dự giờ đồng nghiệp trong môn học và các môn học khác ở các trường bạn. Hỗ trợ các phương tiện kĩ thuật như máy tính, máy chiếu, hay tài liệu tham khảo.
MÔ TẢ SÁNG KIẾN
1. Hoàn cảnh nảy sinh sáng kiến.
Môn Sinh học là môn học đòi hỏi nhiều tư duy để suy luận và vận dụng thực tiễn, kiến thức môn học đa dạng phong phú. Để học tốt môn sinh học học sinh cần hiểu và nắm vững kiến thức lí thuyết và vận dụng linh hoạt, sáng tạo kiến thức lí thuyết đó vào giải các bài tập sinh học, giải thích các hiện tượng thực tế vận dụng kiến thức vào giải quyết các tình huống thực tiễn. Thông qua việc giải các bài tập Sinh học, học sinh được củng cố, khắc sấu kiến thức lí thuyết, phát triển tư duy sáng tạo, phát triển năng lực học sinh hiểu bài và nhớ bài lâu hơn và đặc biệt là các em không cảm thấy mệt mỏi hay nhàm chán khi học bộ môn vốn được coi là nặng về lí thuyết. 
Trong thực tế ở trường THCS, một số em học tập chăm chỉ nhưng thành tích học tập chưa cao. Các em thường học bài nào biết bài ấy, học phần sau không biết liên hệ với phần trước, không biết hệ thống kiến thức, liên kết kiến thức với nhau, không biết vận dụng kiến thức trước vào bài học sau. Nhiều học sinh chưa biết cách học, cách ghi kiến thức vào bộ não mà chỉ học thuộc lòng, học vẹt một cách máy móc, thuộc nhưng không nhớ kiến thức trọng tâm, không biết liên tưởng đến các kiến thức liên quan với nhau. Nguyên nhân đó chính là do các em chưa tìm ra phương pháp học tập phù hợp, chưa có phương pháp ghi nhớ kiến thức một hiệu quả. Từ đó dễ gây tâm lý chán nản, buông xuôi dẫn đến lỗ hổng kiến thức ngày càng rộng hơn và đến một lúc nào đó không thể lấp được.Về phía giáo viên, còn lúng túng trong việc tổ chức các hoạt động trên lớp đặc biệt là các tiết ôn tập, những tiết học có nhiều nội dung chỉ liệt kê các ý chính ở Sinh học lớp 8 và lớp 9 khiến cả thầy và trò chưa hệ thống lại kiến thức một cách đầy đủ gây khó khăn cho việc làm các bài tập ứng dụng.
Trước thực trạng này đòi hỏi giáo viên phải cải tiến phương pháp dạy học nhằm
giúp học sinh có hứng thú hơn trong học tập, có điều kiện ghi nhớ và khắc sâu kiến thức, làm chủ kiến thức mình đã học và đặc biệt là phát trển các năng lực cho học sinh. GV cần rèn luyện kĩ năng sống, kĩ năng giải quyết các tình huống thực tiễn cho học sinh thông qua khả năng vận dụng tri thức tổng hợp. Việc xây dựng được một “hình ảnh” thể hiện mối liên hệ giữa các kiến thức sẽ mang lại những lợi ích đáng quan tâm về các mặt: ghi nhớ, phát triển nhận thức, tư duy, óc tưởng tượng và khả năng sáng tạoMột trong những công cụ hết sức hữu hiệu để tạo nên các “hình ảnh liên kết” là Sơ đồ tư duy. Sơ đồ tư duy có rất nhiều hình ảnh để chúng ta hình dung về kiến thức cần nhớ, nó giống như một bức tranh lớn đầy hình ảnh, màu sắc phong phú hơn là một bài học khô khan, nhàm chán. Xuất phát từ những cơ sở trên tôi mạnh dạn đưa ra sáng kiến “ Sử dụng Sơ đồ tư duy trong dạy học môn Sinh học THCS”. 
2. Cơ sở lí luận
Giáo dục phổ thông nước ta đang thực hiện bước chuyển từ chương trình giáo dục tiếp cận nội dung sang tiếp cận năng lực của người học, nghĩa là từ chỗ quan tâm đến việc học sinh học được cái gì đến chỗ quan tâm học sinh vận dụng được cái gì qua việc học. Để đảm bảo được điều đó, nhất định phải thực hiện thành công việc chuyển từ phương pháp dạy học theo lối “ truyền thụ một chiều” sang dạy cách học, cách vận dụng kiến thức, rèn luyện kĩ năng, hình thành năng lực và phẩn chất; đồng thời phải chuyển cách đánh giá kết quả giáo dục từ nặng về kiểm tra trí nhớ sang kiểm tra, đánh giá năng lực vận dụng kiến thức giải quyết vấn đề, coi trọng cả kiểm tra, đánh giá kết quả học tập với kiểm tra, đánh giá trong quá trình học tập để có thể tác động kịp thời nhằm nâng cao chất lượng của các hoạt động dạy học và giáo dục. Trước bối cảnh đó và để chuẩn bị quá trình đổi mới chương trình, sách giáo khoa giáo dục phổ thông sau năm 2015 cần thiết phải đổi mới đồng bộ phương pháp dạy học và kiểm tra, đánh giá kết quả giáo dục theo định hướng phát triển năng lực của người học.
Trong nội dung đổi mới căn bản, toàn diện đó có yêu cầu đổi mới công tác dạy học, vì thế mỗi môn học trong đó có môn Sinh học cần phải đảm bảo dạy học theo chuẩn kiến thức kĩ năng và định hướng phát triển năng lực cho học sinh. Người dạy không chỉ đảm bảo mục tiêu giáo dục mà còn chú ý đến đổi mới phương pháp dạy học sao cho đạt hiệu quả cao trong quá trình dạy học.
Hiện nay nhiều phương pháp dạy học mới được đưa ra và được áp dụng
rộng rãi đem lại không khí dạy - học sôi nổi trong toàn ngành, chất lượng giáo dục ngày được nâng cao và quan trọng hơn là phát triển năng lực cho học sinh. Một trong những phương pháp dạy học đang được toàn ngành và xã hội quan tâm là phương pháp dạy học bằng sơ đồ tư duy (SĐTD). Thực hiện dạy học bằng SĐTD góp phần tích cực hoá hoạt động của HS hình thành và phát triển năng lực, tư duy độc lập sáng tạo của HS góp phần nâng cao chất lượng giáo dục. 
3. Thực trạng của vấn đề. 
 - Thực tế trong quá trình giảng dạy trên lớp, đặc biệt với các bài có nhiều kiến thức cần nhớ, bài ôn tập, tổng kết, giáo viên gặp khó khăn trong việc truyền tải lượng thông tin, kiến thức bài học tới học sinh. Các tiết dạy này thường trở nên nhàm chán, đơn điệu. Chính vì vậy, việc sử dụng kỹ thuật dạy học bằng SĐTD sẽ khắc phục được tình trạng này.
 - Nhiều học sinh chưa biết cách học, cách ghi kiến thức vào bộ não mà chỉ học thuộc lòng, học vẹt, thuộc một cách máy móc, thuộc nhưng không nhớ được kiến thức trọng tâm, không nắm được cấu tạo phù hợp với chức năng hay tìm hiểu đặc điểm thích nghi với đời sống.... Đặc trưng môn Sinh học là nhiều kiến thức lí thuyết ít bài tập nên HS còn ngại học lí thuyết và chưa biết cách trình bày khi làm bài.
 - Chưa biết hệ thống lại kiến thức lí thuyết đã học vào giải quyết các tình
huống thực tiễn trong đời sống.
Kết quả thu được sau khi kiểm tra 45 phút ở khối lớp 8 thu được trước khi áp dụng sáng kiến như sau:
Lớp
Tổng số HS
Giỏi
Khá
Trung bình
Yếu
Kém
SL
%
SL
%
SL
%
SL
%
SL
%
8A
39
3
7,7
20
51,3
14
35,9
2
5,1
0
0
8B
32
2
6,3
15
46,9
12
37,5
3
9,4
0
0
4. Các giải pháp, biện pháp thực hiện
4. 1. Khái niệm và vai trò của sơ đồ tư duy.
4.1.1. Sơ đồ tư duy là gì?
 	Sơ đồ tư duy (SĐTD) là hình thức ghi chép, sử dụng màu sắc, hình ảnh để mở rộng và đào sâu các ý tưởng. SĐTD - một công cụ tổ chức tư duy nền tảng, có thể miêu tả nó là một kĩ thuật hình hoạ giữa sự kết hợp giữa các từ ngữ, hình ảnh, màu sắc, đường nét phù hợp với cấu trúc hoạt động và chức năng của bộ não, giúp con người khai thác tiềm năng vô tận của bộ não.
	Cơ chế hoạt động của sơ đồ tư duy chú trọng tới hình ảnh, màu sắc, với các mạng lưới liên tưởng ( Các nhánh) - SĐTD là công cụ đồ hoạ nối các hình ảnh có liên hệ với nhau, vì vậy có thể sử dụng SĐTD vào hỗ trợ dạy học kiến thức mới, củng cố kiến thức sau mỗi tiết học, ôn tập hệ thống hoá kiến thức sau mỗi chương
4.1.2. Vai trò của sơ đồ tư duy.
* SĐTD giúp phát triển năng lực cho học sinh : HS tự mình tái hiện kiến thức một cách ngắn gọn bằng sơ đồ lại có hình ảnh minh họa giúp cho HS phát triển các năng lực như năng lực quan sát, năng lực tự quản lí, tự học 
* SĐTD giúp HS học được phương pháp học: Việc rèn luyện phương pháp học tập cho HS không chỉ là một biện pháp nâng cao hiệu quả dạy học mà còn là mục tiêu dạy học. Thực tế cho thấy một số HS học rất chăm chỉ nhưng vẫn học kém, nhất là môn Sinh học, các em này thường học bài nào biết bài đấy, học phần sau đã quên phần trước và không biết liên kết các kiến thức với nhau, không biết vận dụng kiến thức đã học trước đó vào những phần sau. Phần lớn số HS này khi đọc sách hoặc nghe giảng trên lớp không biết cách tự ghi chép để lưu thông tin, lưu kiến thức trọng tâm vào trí nhớ của mình. Sử dụng thành thạo SĐTD trong dạy học HS sẽ học được phương pháp học, tăng tính độc lập, chủ động, sáng tạo và phát triển tư duy.
 * SĐTD giúp HS học tập một cách tích cực: Một số kết quả nghiên cứu 
cho thấy bộ não của con người sẽ hiểu sâu, nhớ lâu và in đậm cái mà do chính mình tự suy nghĩ, tự viết, vẽ ra theo ngôn ngữ của mình vì vậy việc sử dụng SĐTD giúp HS học tập một cách tích cực, huy động tối đa tiềm năng của bộ não. 
Việc HS tự vẽ SĐTD có ưu điểm là phát huy tối đa tính sáng tạo của HS, phát triển năng khiếu hội họa, sở thích của HS, các em tự do chọn màu sắc (xanh, đỏ, vàng, tím,), đường nét (đậm, nhạt, thẳng, cong), các em tự “sáng tác” nên trên mỗi SĐTD thể hiện rõ cách hiểu, cách trình bày kiến thức của từng HS vàSĐTD do các em tự thiết kế nên các em yêu quí, trân trọng “tác phẩm” của mình.
* SĐTD giúp HS ghi chép có hiệu quả. Do đặc điểm của SĐTD nên người thiết kế SĐTD phải chọn lọc thông tin, từ ngữ, sắp xếp, bố cục để “ghi” thông tin cần thiết nhất và lôgic, vì vậy sử dụng SĐTD sẽ giúp HS dần dần hình thành cách ghi chép có hiệu quả.
- Ưu điểm của cách ghi chép bằng SĐTD:
+ Lôgic, mạch lạc
+ Trực quan dễ nhìn, dễ nhớ, dễ hiểu
+ Nhìn thấy bức tranh tổng thể mà lại chi tiết
+ Kích thích được hứng thú học tập của học sinh
+ Giúp mở rộng ý tưởng, đào sâu kiến thức
+ Giúp hệ thống hoá kiến thức.
* SĐTD giúp HS học tập có hiệu quả, tiết kiệm được thời gian.  Dựa vào sơ đồ tư duy, các hình ảnh minh họa sinh động học sinh vừa nắm được kiến thức tổng thể, mà lại chi tiết các nội dung kiến thức đã học. Thông qua các nhánh của sơ đồ tư duy học sinh có thể tự đặt ra các câu hỏi khác nhau liên quan đến các nội dung kiến thức, mảng kiến thức. Từ đó giúp các em vừa tiết kiệm được thời gian học bài, vừa khắc sâu, nhớ lâu kiến thức.
4.2. Sử dụng sơ đồ tư duy trong dạy học sinh học THCS
 Chương trình SGK Sinh học 6 tìm hiểu nghiên cứu về thực vật: Đặc điểm cấu tạo của cơ quan sinh dưỡng, cơ quan sinh sản của Thực vật có hoa và một số nhóm thực vật...Các khái niệm về thụ tinh, sinh sản sinh dưỡng. Ở Sinh học lớp 7 thì tìm hiểu về động vật: Các ngành động vật từ thấp đến cao, từ đơn bào cho đến động vật đa bào. Sau khi học xong mỗi ngành động vật phải hiểu những ngành động vật sau tiến hóa hơn ngành động vật trước. Còn ở Sinh học 8 nghiên cứu đặc điểm cấu tạo, cơ chế hoạt động của cơ quan, hệ cơ quan trong cơ thể. Phần Di truyền - Biến dị và Sinh vật - môi trường được học trong chương trình Sinh học 9. Ở mỗi lớp GV cần phải hệ thống kiến thức sao cho HS dễ hiểu, dễ nắm bắt. GV có thể sử dụng SĐTD vào việc kiểm tra bài cũ, khắc sâu củng cố hoặc trong quá trình học để HS dễ dàng tiếp thu và nhớ lâu hơn. Ở đề tài này tôi chỉ giới thiệu một số loại SĐTD sử dụng trong dạy học tích cực và định hướng phát triển năng lực cho HS.
4.2.1. Sử dụng sơ đồ tư duy trong kiểm tra kiến thức cũ.
 Vì thời gian kiểm tra bài cũ không nhiều, chỉ khoảng 5 – 7 phút nên yêu cầu của GV thường không quá khó, không đòi hỏi nhiều sự phân tích, so sánh để trả lời câu hỏi. GV thường yêu cầu HS tái hiện lại một phần nội dung bài học bằng cách gọi học sinh lên bảng trả lời câu hỏi. GV sẽ chấm điểm tùy vào mức độ thuộc bài của HS. Cách làm này vô tình để nhiều HS rơi vào tình trạng “học vẹt ”, đọc thuộc lòng mà không hiểu bài. Do đó cần phải có sự thay đổi trong việc kiểm tra, đánh giá nhận thức của HS, yêu cầu đặt ra là không chỉ kiểm tra “phần nhớ” mà cần chú trọng đến “phần hiểu”. Cách làm này vừa tránh được việc học vẹt, vừa đánh giá chính xác HS, đồng thời nâng cao chất lượng học tập. Sử dụng SĐTD trong dạy học Sinh học đã thực hiện được điều đó. Các sơ đồ thường được GV sử dụng dưới dạng thiếu thông tin, yêu cầu HS điền các thông tin còn thiếu và rút ra nhận xét về mối quan hệ các nhánh thông tin với từ khóa trung tâm.
Giáo viên gọi học sinh lên bảng thuyết trình sơ đồ tư duy của bài học
 cũ trước lớp. Giáo viên và các bạn khác có thể đặt thêm câu hỏi để học sinh trả lời. Bắt buộc 100% học sinh phải có sơ đồ tư duy bài học cũ và các sơ đồ tư duy được học sinh lưu trong bì đựng giấy kiểm tra để sử dụng khi ôn tập và khi giáo viên kiểm tra thay cho vở bài tập. 
Ví dụ 1: Trước khi học bài “Sự lớn lên và phân chia của tế bào”Sinh học 6.
GV đưa ra một sơ đồ tư duy còn khuyết một vài thông tin về các phần của 
tế bào thực vật, đặc điểm của từng bộ phận yêu cầu HS điền tiếp thông tin vào sơ đồ tư duy cho hoàn thiện.
Ví dụ 2: Trước khi học bài “Bạch cầu – Miễn dịch” – Sinh học 8
GV kiểm tra một phần của bài cũ bằng cách đưa ra tên chủ đề là: Máu yêu cầu HS nhớ kiến thức về thành phần và chức năng của từng thành phần trong máu rồi hệ thống lại bằng sơ đồ tư duy.
4.2.2. Sử dụng sơ đồ tư duy trong việc dạy kiến thức mới.
4.2.2.1. Dạy một nội dung kiến thức của bài: 
 Sử dụng SĐTD cho cách trình bày mới. GV thay vì gạch đầu dòng các ý cần trình bày lên bảng thì sử dụng SĐTD để thể hiện được một phần hoặc tòan bộ nội dung bài học một cách rất trực quan.
Ví dụ: Khi dạy xong mục I: Máu - bài “ Máu và môi trường trong cơ thể ” – Sinh học 8, 
Hoạt động của Giáo viên
Hoạt động của Học sinh
GV có thể đặt câu hỏi: 
? Máu gồm những thành phần nào?
? Các tế bào máu và huyết tương chiếm bao nhiêu %?
? Các tế bào màu gồm những tế bào nào?
- HS dựa vào thông tin ở sách giáo khoa có thể cho học sinh hoạt động nhóm lập SĐTD từng nhánh một theo sự gợi ý của GV
Ví dụ: Khi dạy phần Nhân tố sinh thái - bài “Môi trường và các nhân tố sinh thái ” – Sinh học 9. GV yêu cầu HS tự nghiên cứu SGK và vẽ một SĐTD theo ý hiểu của mình sau đó GV đưa ra SĐTD yêu cầu HS thuyết trình các nhân tố sinh thái vô sinh và hữu sinh.
4.2.2.2. Dạy nội dung kiến thức của cả bài: 
 Phù hợp với mục đích củng cố kiến thức cho HS sau bài học thì dạng bài tập thích hợp là điền thông tin còn thiếu vào SĐTD. Các thông tin còn thiếu này sẽ bao trùm nội dung tòan bài để một lần nữa nhằm khắc sâu kiến thức và lưu ý đến trọng tâm của bài học.
Ví dụ: Sau khi học xong bài Protein - Sinh học 9. GV cho HS điền tiếp vào các nội dung còn thiếu: Cấu tạo hóa học và cấu trúc không gian của Protein. Các chức năng chủ yếu của protein 
Ví dụ: Sau khi học xong bài Rễ - Sinh học 6. GV cung cấp tên chủ đề rồi cho HS tự vẽ các nhánh về các loại rễ, các miền của rễ và chức năng của từng miền.
4.2.3. Sử dụng SĐTD trong bài thực hành: 
Trong giờ thực hành, HS cần phải nắm vững các bước tiến hành để có thể thực hiện thành công. Các bước tiến hành phải đơn giản, ngắn gọn cho HS dễ hiểu và có thể thực hiện theo được. 
Trước giờ thực hành, GV yêu cầu HS nghiên cứu nội dung thực hành, sau đó vào lớp các nhóm HS vẽ ra SĐTD thể hiện các bước tiến hành cho bài thực hành và báo cáo trước lớp. Cả lớp chỉnh sửa, bổ sung cho hòan chỉnh sau đó các nhóm mới tiến hành thực hành.
Ví dụ: Trước khi học bài : Mổ và quan sát giun đất - Sinh học 7. GV yêu cầu HS thảo luận nhóm nhỏ vẽ SĐTD để nắm được tiến trình của bài thực hành: Đầu tiên cách xử lí mẫu, bốn bước mỗ giun sau đó quan sát cấu tạo trong của giun.
Ví dụ: Trước khi học bài thực hành: Mổ cá - Sinh học 7. GV hướng dẫn HS về nhà vẽ SĐTD ra giấy thể hiện được: Cách mổ cá, cách quan sát các bộ phận như thế nào. Khi đến tiết thực hành GV chỉ nêu một số chú ý khi mổ cá để tạo nhiều thời gian cho các em thực hành.
4.2.4. Sử dụng SĐTD để ra bài tập về nhà:
 Vì làm bài tập về nhà sẽ có nhiều thời gian và điều kiện để tìm kiếm tài liệu nên bài tập về nhà mà GV giao cho HS ( hoặc nhóm HS) trước hết phải gắn bó với nội dung bài học và trong điều kiện cho phép ( trình độ HS, thời gian, kinh tế). Yêu cầu đối với bài về nhà cũng không cần khó hơn, phức tạp hơn và cần sự đầu tư lớn hơn ( cả kênh chữ, kênh hình, màu sắc, lượng thông tin), qua đó còn thể hiện cả tính sáng tạo và sự tích cực tìm kiếm tài liệu học tập của HS. 
 Ví dụ: Sau khi học xong các dạng đột biến - Sinh học 9 GV yêu cầu HS về nhà vẽ SĐTD để hệ thống lại kiến thức về các dạng biến dị, nguyên nhân, hậu quả của một số loại biến dị. GV có thể hướng HS tìm tranh ảnh liên quan đến các dạng đột biến để dán vào SĐTD.
4.2.5. Sử dụng SĐTD để tổng hợp kiến thức một chương hoặc nhiều bài:
 Dùng SĐTD có thể thể hiện một lượng thông tin nhỏ đến lớn và rất lớn. Tương tự, GV và HS có thể thể hiện một phần nội dung bài học, một bài học hoặc nhiều bài học, một chương kiến thức. Vấn đề là các nội dung này có điểm chung với nhau, có mối quan hệ với nhau thông qua từ khóa. Tùy theo mục đích sử dụng mà có thể thiết kế SĐTD trong giờ học thông thường, trong giờ kiểm tra, giờ thực hành, ôn tập, tổng kết hay hệ thống một chương, một phần kiến thức. Với bài tập này, GV có thể cùng HS làm tại lớp hoặc bài tập giao về nhà cho HS, nhóm HS.
Ví dụ: Sau khi học xong chương trình động vật không xương sống HS vẽ SĐTD sau:
4.3. Hướng dẫn HS lập SĐTD
Giáo viên hướng dẫn học sinh cách thiết kế sơ đồ tư duy đảm bảo thể hiện được nội dung kiến thức trọng tâm của bài, chương và khái quát các nội dung kiến thức đã học.
- Bước 1: Bắt đầu từ trung tâm với hình ảnh của chủ đề, hay có thể với một từ khóa được viết in hoa, viết đậm. Một hình ảnh có thể diễn đạt được cả ngàn từ và giúp ta sử dụng trí tưởng tượng của mình phát triển năng lực quan sát. Một hình ảnh ở trung tâm sẽ giúp ta tập trung được vào chủ đề và làm cho ta hưng phấn hơn. 
- Bước 2: Luôn sử dụng màu sắc. Bởi vì màu sắc cũng có tác dụng kích thích não như hình ảnh. 
- Bước 3: Nối các nhánh chính (cấp một) đến hình ảnh trung tâm, nối các nhánh cấp hai đến các nhánh cấp một,. bằng các đường kẻ, đường cong với màu sắc khác nhau. 
- Bước 4: Mỗi từ/ảnh/ý nên đứng độc lập và được nằm trên một đường kẻ hay đường cong. 
- Bước 5: Tạo ra một kiểu bản đồ riêng cho mình (Kiểu đường kẻ, màu sắc,) 
- Bước 6: Bố trí thông tin đều quanh hình ảnh trung tâm.
 Tuy nhiên không phải bất cứ nội dung nào, bài học nào cũng có thể sử dung SĐTD và cũng không phải sử dụng cho mọi giờ học. GV cần có sự linh hoạt trong sử dụng SĐTD đúng lúc, đúng cách, phù hợp với đối tượng HS và quan trọng là đảm bảo việc truyền tải nội dung bài học. Trong dạy học, việc sử dụng SĐTD được sử dụng, khai thác khác nhau tùy theo trình độ của HS.
* Đối với HS trung bình: tập cho HS có thói quen tự ghi chép hay tổng kết một vấn đề, một chủ đề đã học, đã học theo cách hiểu của các em dưới dạng SĐTD.
Cho HS tập “ đọc hiểu” và tự vẽ SĐTD sau từng bài học. Ban đầu, GV cho các em làm quen với một số SĐTD có sẵn, sau đó tập cho các em vẽ bằng cách cho tên chủ đề hoặc một hình ảnh, hình vẽ của chủ đề chính vào vị trí trung tâm rối đặt ra các câu hỏi gợi ý để các em tiếp tục vẽ ra các nhánh cấp 1, 2,3  Hướng dẫn, gợi ý các em tự hệ thống kiến thức trọng tâm, kiến thức cần nhớ của mỗi bài học vào một trang giấy. Có thể vẽ chung trên một cuốn vở hoặc để thành các trang giấy rời rồi kẹp thành một tập. Mỗi bài học được được vẽ kiến thức trọng tâm trên một trang giấy giúp các em dễ ôn tập, xem lại kiến thức khi cần, chỉ cần rút tờ SĐTD của bài đó ra là các em nhanh chóng ôn lại kiến thức một cách dễ dàmg. Với cách làm này rèn luyện cho bộ óc các em hướng dẫn tới cách suy nghĩ lôgic, mạch lạc và cũng là cách giúp các em hiểu bài, ghi nhớ kiến thức vào não chứ không phải là học thuộc lòng, học vẹt. 
Học sinh có thể thiết kế SĐTD theo ý hiểu của mình các em có thể thiết kế sơ đồ tư duy một cách chi tiết, cụ thể hơn (có nhiều nhánh nhỏ, thể hiện cụ thể từng đơn vị kiến thức). Việc thiết kế sơ đồ tư duy không áp đặt mà học sinh có thể có nhiều ý tưởng và các cách thiết kế khác nhau, có các hình ảnh minh họa kèm theo. 
Ví dụ: Khi học xong bài Giun đũa - Sinh học 7 GV có thể vẽ sẵn SĐTD để HS trình bày những kiến thức chính trong bài. 
Ví dụ: Khi học bài Cấu tạo ngoài của Thân - Sinh học 6 GV có thể vẽ sẵn SĐTD để HS điền với những câu hỏi gợi ý. 
Hoạt động của GV
Hoạt động của HS
GV vẽ SĐTD có tên chủ đề. Thân
GV đưa ra câu hỏi gợi ý:
? Sau khi học xong bài em cần nhớ những kiến thức nào?
? Thân gồm những bộ phận nào?
? Có mấy loại thân?
? Thân gỗ gồm mấy loại?
? Thân leo có mấy loại?
- HS trả lời và điền thông tin vào các nhánh nhỏ.
 * Đối với HS khá giỏi: Sử dụng SĐTD để tìm chiến lược giải quyết một vấn đề hay tìm nhiều hướng giải một bài tập, hệ thống hóa kiến thức Việc vẽ SĐTD theo nhóm nên thực hiện trước khi nghiên cứu tài liệu mới, kiến thức mới để cả nhóm tìm chiến lược giải quyết vấn đề hoặc củng có thể thực hiện để hệ thống hóa kiến thức, một chủ đề, một chương. Sau khi mỗi nhóm “vẽ” xong, đại diện của mỗi nhóm hoặc một số thành viên trong nhóm “ thuyết trình” SĐTD
cho cả lớp nghe để thảo luận, góp ý bổ sung ( nếu cần thiết).
Ngoài việc vẽ SĐTD trong học tập, nên cho các em có thói sử dụng SĐTD tự ghi tóm lược nội dung chính của cuốn sách dưới dạng SĐTD khi các em đọc sách. Hoặc gợi ý cho các em lập kế hoạch học tập, vạch kế hoạch cho bản thân để biến ước mơ thành hiện thực trong tương lai, các kế hoạch này có thể được bổ sung dần dần theo năm tháng bằng cách vẽ thêm nhánh khi mỗi người có sự điều chỉnh kế hoạch. Khuyến khích HS ôn luyện bài, học bài ở nhà, hoặc ở lớp hoạt động nhóm bằng SĐTD nhất là đối với học sinh giỏi.
Ví dụ: Khi học bài: Châu chấu - Sinh học 7. GV chỉ đưa ra tên chủ đề yêu cầu HS vẽ tiếp các nhánh của SĐTD về cấu tạo, di chuyển, dinh dưỡng, sinh sản
Ví dụ : Khi bồi dưỡng HSG GV đưa ra SĐTD để củng cố lí thuyết hoặc liệt kê các dạng bài tập Sinh học 9.
4.4. Cách tổ chức hoạt động khi sử dụng SĐTD
Hoạt động 1: Lập SĐTD
 Mở đầu bài học, GV có thể cho học sinh lập sơ đồ tư duy theo nhóm hay cá nhân với gợi ý của giáo viên.
Hoạt động 2: Báo cáo, thuyết minh về SĐTD
 GV cho một vài HS hoặc đại diện của các nhóm học sinh lên báo cáo, thuyết minh về SĐTD mà nhóm mình đã thiết lập. Qua hoạt động này vừa biết rõ việc hiểu kiến thức của các em vừa là một cách rèn cho các em khả năng thuyết trình trước đông người, giúp các em tự tin hơn, mạnh dạn hơn phát triển năng lực tự học, tự quản lí bản thân cho HS.
Hoạt động 3: Thảo luận, chỉnh sửa, hoàn thiện SĐTD
 Cho HS các nhóm thảo luận, bổ sung, chỉnh sửa để hoàn thiện SĐTD. GV sẽ là người cố vấn, là trọng tài giúp HS hoàn chỉnh SĐTD, từ đó nhớ những kiến thức trọng tâm của bài. Đây cũng chính là hình thức phát triển năng lực hợp tác cho HS. 
Hoạt động 4: Củng cố kiến thức bằng một SĐTD
 GV đã chuẩn bị sẵn một sơ đồ tư duy mà cả lớp đã tham gia chỉnh sửa hoàn chỉnh, cho học sinh lên trình bày, thuyết minh về kiến thức đó.
4.5. Những điều cần tránh khi sử dụng SĐTD
Ghi lại nguyên cả đọan văn dài dòng: Khi thiết kế SĐTD cẩn chọn lọc những ý cơ bản, kiến thức cần thiết, ví dụ minh họa để có nhiều thông tin cho bài học. Thiết kế BĐTD của một bài học phải thể hiện được kiến thức trọng tâm, cơ bản cần chốt lại của bài học đó.
 Ghi chép quá nhiều ý không cần thiết hoặc quá sơ sài không có thông tin.
 Dành quá nhiều thời gian để vẽ, viết, tô màu Chỉ nên vẽ những hình ảnh có liên quan đến chủ đề kiến thức. Tránh khuynh hướng vẽ quá cầu kì những hình ảnh không cần thiết.
4.6. Những hạn chế khi sử dụng SĐTD
- SĐTD không thể ghi chi tiết các nội dung nhỏ lẻ mà việc kiểm tra hiện nay thường kiểm tra phần kiến thức nhỏ lẻ.
- Khi vẽ SĐTD thường tốn nhiều giấy vở HS chưa biết thiết kế.
5. Kết quả đạt được
Qua một năm thực hiện sáng kiến “Sử dụng sơ đồ tư duy trong dạy học Sinh học THCS” tôi nhận thấy tiết học đạt hiệu quả cao hơn rất nhiều so với cách dạy truyền thống.
Từ các thông tin về kênh hình, kênh chữ được trình bày một cách khoa học, sáng tạo trên SĐTD sẽ giúp HS dễ dàng vận dụng các kiến thức đã học để trả lời các câu hỏi, bài tập sinh học liên quan một cách hiệu quả nhất. Đồng thời HS còn học được phương pháp học tập, tăng tính chủ động, sáng tạo và phát triển tư duy. Với học sinh, việc tự vẽ SĐTD có ưu điểm là phát huy tối đa tính sáng tạo, lôi cuốn học sinh tham gia vào hoạt động học tập, tạo điều kiện phát triển các kỹ năng, sở thích của học sinhqua đó, các em tự củng cố khắc sâu kiến thức, linh hoạt sáng tạo trong việc vận dụng các kiến thức lý thuyết, tạo hứng thú học tập ở HS 
Để chắc chắn hơn vào tính hiệu quả của những biện pháp trên, tôi và tiến hành khảo sát lại kết quả ở một khối lớp (khối 8). Hình thức khảo sát được tiến hành bằng một bài kiểm tra 15 phút trên giấy (cho mỗi lần khảo sát)
	Nội dung khảo sát cho mỗi lần là một bài tập về một nội dung bài học. Kết quả thu được cụ thể như sau: 
Lớp
Tổng số HS
Giỏi
Khá
Trung bình
Yếu
Kém
SL
%
SL
%
SL
%
SL
%
SL
%
8A
39
9
23,1
20
51,3
10
25,6
0
0
0
0
8B
32
5
15,6
14
43,8
13
40,6
0
0
0
0
6. Điều kiện để sáng kiến được nhân rộng
- Giáo viên cần phải trau dồi kiến thức chuyên môn qua các lớp học chuyên đề do ngành tổ chức. Luôn tìm tòi khám phá các phương pháp dạy học tích cực nhằm phát triển năng lực cho học sinh. 
- Nhà trường có đầy đủ trang thiết bị dạy học về tranh ảnh, máy tính, máy chiếu phục vụ cho các tiết học.
KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ
1. Kết luận
Qua một số năm dạy học sinh học ở THCS, thực hiện một số biện pháp cụ thể, tôi thu được kết quả khá khả quan, tôi đã khắc phục được tình trạng chán học, lười học sinh học ở học sinh. Học sinh đã thực sự hứng thú với tiết ôn tập, biết cách hệ thống, sâu chuỗi các kiến thức đã học giúp các em nhớ lâu, kích thích được sự tò mò, khám phá và yêu thích bộ môn sinh học.
Sử dụng sơ đồ tư duy trong giờ dạy Sinh học sẽ bắt buộc tất cả 100% học sinh đều phải động não, sáng tạo và chỉ trong một tờ giấy các em có thể trình bày nội dung của bài học. Học sinh sẽ tự khám phá và khi tạo được một tác phẩm đẹp, ý tưởng hoàn chỉnh được giáo viên và các bạn khen ngợi sẽ phấn khởi rất nhiều.
Các em khác cũng đã cố gắng tự hoàn thiện mình và mỗi học sinh có một tính cách, một ý tưởng rất khác nhau khi trình bày SĐTD của mình nhưng điều quan trọng là các em biết cách tự ghi chép đầy đủ nội dung bài học để học ở

File đính kèm:

  • docsang_kien_kinh_nghiem_su_dung_so_do_tu_duy_trong_day_hoc_mon.doc