Sáng kiến kinh nghiệm Tạo hứng thú cho học sinh khi cảm nhận những vần thơ hay trong chương trình Ngữ văn lớp 9 thông qua một số biện pháp tiếp nhận tích cực

  1. Hoàn cảnh nảy sinh sáng kiến

Trong chương trình Ngữ văn Trung học cơ sở (THCS) nói chung, Ngữ văn 9 nói riêng số lượng các tiết dạy văn bản thơ được phân phối rất phong phú. Thông qua các tác phẩm văn học nói chung, các tác phẩm thơ trũ tình nói riêng, học sinh (HS) được trang bị những kiến thức phổ thông, cơ bản, hiện đại, có tính hệ thống về ngôn ngữ và văn học, phù hợp với trình độ phát triển của lứa tuổi và yêu cầu đào tạo nhân lực trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Hình thành và phát triển ở học sinh các năng lực sử dụng tiếng Việt, tiếp nhận văn bản, cảm thụ thẩm mỹ, phương pháp học tập tư duy, đặc biệt là phương pháp tự học, năng lực ứng dụng những điều đã học vào cuộc sống. Bồi dưỡng cho học sinh tình yêu tiếng Việt, văn học, văn hóa, tình yêu gia đình, thiên nhiên, đất nước, lòng tự hào dân tộc, ý chí tự lập, tự cường, lý tưởng xã hội chủ nghĩa, tinh thần dân chủ nhân văn, giáo dục cho học sinh trách nhiệm công dân, tinh thần hữu nghị hợp tác quốc tế, ý thức tôn trọng và phát huy các giá trị văn hóa của dân tộc và nhân loại"

          Thực tế trong  giảng dạy môn Ngữ văn ở trường THCS nói chung và Ngữ văn 9 nói riêng, chúng tôi nhận thấy khi cần cảm nhận những vần thơ hay, các em học sinh thường không diễn tả được, hoặc diễn tả không hết cái hay, cái đẹp của thơ. Một số em có khả năng văn chương, đọc nhiều sách tham khảo có thể hiểu phần nào ý thơ nhưng vẫn chưa sâu. Nguyên nhân chủ yếu là các em chưa thực sự hứng thú, không hiểu, không nắm bắt được đầy đủ phương pháp cảm thụ văn học do thiếu kinh nghiệm sống. Đa số học sinh chỉ dừng ở mức độ diễn xuôi thơ nên chất lượng bài làm nói riêng và chất lượng học tập bộ môn nói chung rất hạn chế.

doc 72 trang Anh Hoàng 27/05/2023 3840
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Tạo hứng thú cho học sinh khi cảm nhận những vần thơ hay trong chương trình Ngữ văn lớp 9 thông qua một số biện pháp tiếp nhận tích cực", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Tạo hứng thú cho học sinh khi cảm nhận những vần thơ hay trong chương trình Ngữ văn lớp 9 thông qua một số biện pháp tiếp nhận tích cực

Sáng kiến kinh nghiệm Tạo hứng thú cho học sinh khi cảm nhận những vần thơ hay trong chương trình Ngữ văn lớp 9 thông qua một số biện pháp tiếp nhận tích cực
UBND TỈNH HẢI DƯƠNG
SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
BẢN MÔ TẢ SÁNG KIẾN
TẠO HỨNG THÚ CHO HỌC SINH KHI CẢM NHẬN NHỮNG VẦN THƠ HAY TRONG CHƯƠNG TRÌNH NGỮ VĂN LỚP 9 THÔNG QUA MỘT SỐ BIỆN PHÁP TIẾP NHẬN TÍCH CỰC
BỘ MÔN: NGỮ VĂN
Năm học 2014 - 2015
THÔNG TIN CHUNG VỀ SÁNG KIẾN
1.Tên sáng kiến: “Tạo hứng thú cho học sinh khi cảm nhận những vần thơ hay trong chương trình Ngữ văn lớp 9 thông qua một số biện pháp tiếp nhận tích cực” 
2. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến: Lĩnh vực chuyên môn: Dạy và học môn Ngữ văn trong nhà trường THCS.
3. Tác giả: 
Họ và tên: Nguyễn Thị Kim Oanh
Ngày tháng năm sinh: 05/03/1979
Trình độ chuyên môn: ĐHSP Ngữ văn
Chức vụ, đơn vị công tác: Phó Hiệu trưởng - Trường THCS Tân Quang
Điện thoại: ĐT đơn vị: 03203568236, ĐT cá nhân: 0982702487
5. Chủ đầu tư sáng kiến: Trường THCS Tân Quang
6. Đơn vị áp dụng sáng kiến lần đầu: Trường THCS Tân Quang
7. Các điều kiện cần thiết để áp dụng sáng kiến: 
Sự ủng hộ của BGH và tập thể HĐ sư phạm nhà trường về chủ trương và về cơ sở vật chất. Tạo điều kiện trong sắp xếp chuyên môn và thời khóa biểu. Sự đồng thuận của tổ KHXH, nhóm chuyên môn Ngữ văn và học sinh khối 9.
8. Thời gian áp dụng sáng kiến lần đầu:
	Từ đầu năm học 2014 - 2015
TÁC GIẢ XÁC NHẬN CỦA ĐƠN VỊ ÁP DỤNG SÁNG KIẾN
XÁC NHẬN CỦA PHÒNG GD & ĐT
TÓM TẮT SÁNG KIẾN
Hoàn cảnh nảy sinh sáng kiến
Trong chương trình Ngữ văn Trung học cơ sở (THCS) nói chung, Ngữ văn 9 nói riêng số lượng các tiết dạy văn bản thơ được phân phối rất phong phú. Thông qua các tác phẩm văn học nói chung, các tác phẩm thơ trũ tình nói riêng, học sinh (HS) được trang bị những kiến thức phổ thông, cơ bản, hiện đại, có tính hệ thống về ngôn ngữ và văn học, phù hợp với trình độ phát triển của lứa tuổi và yêu cầu đào tạo nhân lực trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Hình thành và phát triển ở học sinh các năng lực sử dụng tiếng Việt, tiếp nhận văn bản, cảm thụ thẩm mỹ, phương pháp học tập tư duy, đặc biệt là phương pháp tự học, năng lực ứng dụng những điều đã học vào cuộc sống. Bồi dưỡng cho học sinh tình yêu tiếng Việt, văn học, văn hóa, tình yêu gia đình, thiên nhiên, đất nước, lòng tự hào dân tộc, ý chí tự lập, tự cường, lý tưởng xã hội chủ nghĩa, tinh thần dân chủ nhân văn, giáo dục cho học sinh trách nhiệm công dân, tinh thần hữu nghị hợp tác quốc tế, ý thức tôn trọng và phát huy các giá trị văn hóa của dân tộc và nhân loại"
	Thực tế trong giảng dạy môn Ngữ văn ở trường THCS nói chung và Ngữ văn 9 nói riêng, chúng tôi nhận thấy khi cần cảm nhận những vần thơ hay, các em học sinh thường không diễn tả được, hoặc diễn tả không hết cái hay, cái đẹp của thơ. Một số em có khả năng văn chương, đọc nhiều sách tham khảo có thể hiểu phần nào ý thơ nhưng vẫn chưa sâu. Nguyên nhân chủ yếu là các em chưa thực sự hứng thú, không hiểu, không nắm bắt được đầy đủ phương pháp cảm thụ văn học do thiếu kinh nghiệm sống. Đa số học sinh chỉ dừng ở mức độ diễn xuôi thơ nên chất lượng bài làm nói riêng và chất lượng học tập bộ môn nói chung rất hạn chế.
	Một thực tế nữa là các bài dạy về phương pháp cảm thụ thơ không được phân thành đơn vị kiến thức riêng trong chương trình Ngữ văn THCS. Chương trình Ngữ văn 9 chỉ có 2 tiết: “Nghị luận về tác phẩm thơ” phân bố ở học kì II. 
	Trên cơ sở các hoàn cảnh đã nêu, sáng kiến này nhằm cung cấp cho học sinh một số cách cảm thụ những vần thơ hay trong chương trình Ngữ văn lớp 9 THCS. Thông qua sáng kiến này, có thể cải thiện tình trạng chán học văn, ngại học văn của một bộ phận không nhỏ học sinh. Qua đó, đáp ứng ngày càng tốt hơn mục tiêu môn học, phát triển năng lực cảm thụ thơ ở học sinh. 
2. Điều kiện, thời gian, đối tượng áp dụng sáng kiến
2.1 Điều kiện, thời gian áp dụng
	* Cung cấp kiến thức cảm thụ cho các em trong khung thời lượng dạy học các tiết đọc hiểu văn bản thơ lớp 9.
	* Trong các tiết dạy tự chọn Ngữ văn.
	* Trong thời gian dạy bồi dưỡng học sinh giỏi lớp 9, học sinh đại trà ôn thi vào lớp 10 THPT và trong các chương trình ngoại khóa văn học...
2.2 Đối tượng áp dụng
 Sáng kiến áp dụng trong phạm vi dạy các tác phẩm thơ hiện đại Việt Nam trong chương trình Ngữ văn lớp 9.
3. Nội dung sáng kiến
	Sáng kiến tập trung giới thiệu và hướng dẫn cụ thể cho học sinh cách cảm thụ những vần thơ hay bằng phương pháp tiếp nhận tích cực. Đặc biệt là kết nối một cách tích cực giữa thế giới trong tác phẩm với hiện thực cuộc sống và kinh nghiệm cá nhân, giữa các yếu tố trong văn bản với các yếu tố ngoài văn bản.
Tính mới mẻ, sáng tạo của sáng kiến là ở chỗ: Sáng kiến đã tập hợp được những kiến thức khái quát về cách cảm thụ thơ đi từ thực tiễn cuộc sống, kinh nghiệm riêng cá nhân. Kết nối một cách tích cực giữa thế giới trong tác phẩm với hiện thực cuộc sống và kinh nghiệm cá nhân. Kết nối một cách tích cực giữa các yếu tố trong văn bản với các yếu tố ngoài văn bản. Cách cảm thụ thơ bằng hệ thống câu hỏi tích cực để hiểu những vần thơ hay trong chương trình Ngữ văn lớp 9 - điều mà học sinh không được học thành những đơn vị kiến thức riêng trong chương trình Ngữ văn THCS. 
Sáng kiến lần đầu được nghiên cứu và áp dụng tại đơn vị đã kích thích tư duy sáng tạo, niềm hứng khởi của học sinh trong quá trình tiếp nhận thơ. Bước đầu tạo chuyển biến trong nhận thức và biến chuyển về chất lượng dạy học môn Ngữ văn lớp 9 ở trường THCS.
	Nội dung sáng kiến là những điều tôi – giáo viên dạy trực tiếp – tìm tòi trong quá trình dạy Ngữ văn của mình.
	Sáng kiến có khả năng áp dụng cao vì ba lý do: 
+ Thứ nhất: Nó phù hợp với học sinh trong quá trình viết văn nghị luận. 
+ Thứ hai: Học sinh lớp 9 là đối tượng học sinh cuối cấp THCS đã được trang bị kiến thức Ngữ văn THCS gần trọn vẹn, hiểu biết của các em đã ở độ “chín” hơn so với các lớp dưới. 
+ Thứ 3: Bên cạnh các giờ học Ngữ văn chính trên lớp, học sinh còn các tiết Ngữ văn tự chọn, các tiết ngoại khóa và các giờ học bồi dưỡng học sinh giỏi, học sinh đại trà hàng tuần.
4. Giá trị, kết quả đạt được của sáng kiến
	Qua khảo sát khi áp dụng bước đầu sáng kiến chúng tôi thấy không những chất lượng làm bài cảm thụ của học sinh được nâng lên rõ rệt mà năng lực tạo lập văn bản nghị luận của học sinh cũng tiến bộ. Bài cảm thụ thơ vừa đạt giá trị nghệ thuật vừa đảm bảo giá trị nội dung. Văn viết có hồn, không “chênh chao” mất phương hướng như trước. Đặc biệt các em đã thực sự hứng thú với các tác phẩm thơ nói chung, với những vần thơ hay nói riêng. Bởi các em tìm thấy trong thơ là cuộc sống – những điều thật bình dị, gần gụi mà không trừu tượng. Như Xuân Diệu đã nói: “Thơ phải xuất phát từ thực tại, từ đời sống, nhưng phải đi qua một tâm hồn, một trí tuệ và khi đã đi qua như vậy, tâm hồn, trí tuệ ấy phải in dấu vào đó thật sâu sắc, càng cá thể, càng độc đáo, càng hay, thơ là tiếng gọi đàn, là sự đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu của những con người”.
5. Đề xuất kiến nghị để thực hiện áp dụng hoặc mở rộng sáng kiến
Sáng kiến: “Tạo hứng thú cho học sinh khi cảm nhận những vần thơ hay trong chương trình Ngữ văn lớp 9 thông qua một số biện pháp tiếp nhận tích cực” có thể áp dụng rộng rãi trước hết là trong dạy học phần thơ hiện đại chương trình Ngữ văn 9.
Những biện pháp mà sáng kiến đề xuất và thực nghiệm trong thực tế dạy học còn là những định hướng thiết thực để các thầy cô giáo áp dụng trong việc tạo hứng thú học tập thơ nói riêng, môn Ngữ văn nói chung ở tất cả các khối lớp 6,7,8 trong trường THCS.
Sáng kiến cũng là những định hướng mang tính cơ sở, nền tảng để giáo viên THPT có thể vận dụng linh hoạt trong giảng dạy phần thơ Việt Nam hiện đại các lớp 10,11,12. Thậm chí trong cảm nhận tác phẩm thơ trong cuộc sống, bạn đọc cũng có thể tùy theo mức độ, yêu cầu để vận dụng giúp quá trình cảm thụ những vần thơ hay đạt hiệu quả như mong muốn.
MÔ TẢ SÁNG KIẾN
Hoàn cảnh nảy sinh sáng kiến
	Chương trình Ngữ văn lớp 9 có tất cả 11 tác phẩm thơ thuộc giai đoạn thơ ca hiện đại Việt Nam (kể cả tác phẩm đọc thêm). Trong đó học kì I có 6 bài thơ và học kì II có 5 bài phân chia thành 17 tiết. Thực tế giảng dạy: Trước những bài thơ hay, những vần thơ chứa nhiều giá trị nghệ thuật, nội dung, học sinh không tự cảm nhận được. Khi được sự hướng dẫn của thầy cô, các em có thể hiểu được nội dung, cảm nhận được cái hay của nghệ thuật Song sự cảm thụ vẫn còn hời hợt, không sâu. Ví dụ: Trong bài thơ “Nói với con” (Y Phương), trả lời câu hỏi: Tại sao nhà thơ lại viết: “Con đường cho những tấm lòng”? học sinh đơn thuần hiểu đó là đường đi trong làng, trong bản, là đường đời, đường ước mơ. Còn cặn kẽ tại sao “đường cho những tấm lòng” ? thì học sinh khó lý giải nổi. Khi viết bài cảm thụ thơ, học sinh thường đơn thuần ghi lại lời giảng của thầy cô, hoặc làm theo văn mẫu. Có những bài các em “chép” sai kiến thức vì không hiểu thấu đáo ý thơ.
	Bên cạnh đó, còn có không ít thầy cô giáo dạy Ngữ văn tỏ ra không tin tưởng khả năng của học sinh, cho rằng các em khó mà hiểu mà cảm được thơ hay. Vì vậy trong giảng dạy không quan tâm đúng mức, không khơi gợi được niềm đam mê, hứng thú văn chương của các em. Số khác lại cho rằng: Học sinh nhớ được lời thầy cô giáo giảng là tốt rồi, không dám mong các em sáng tạo hay cảm nhận sâu sắc bằng tâm hồn và tình cảm của chính các em. Thậm chí có giáo viên còn e ngại khi học sinh có những ý tứ riêng, không giống với ý của cô...
Trong khi đó, cấu trúc chương trình Ngữ văn THCS lại không có một bài học riêng biệt để cung cấp kiến thức, giúp học sinh hình thành kĩ năng cảm thụ thơ. 
	Từ các lý do trên, tôi mạnh dạn đề xuất sáng kiến nhằm cung cấp kiến thức, hướng dẫn học sinh cảm thụ những vần thơ hay trong chương trình. Trong đó chú trọng đến khối học sinh lớp 9 vì nhận thức của các em cao hơn các khối khác, thích hợp để mở rộng kiến thức ngoài chương trình và để hỗ trợ học sinh khi các em làm các bài thi học sinh giỏi, thi chuyển cấp.
Cơ sở lí luận của vấn đề
Mục tiêu của môn Ngữ văn cấp THCS
2.1.1 Mục tiêu khái quát
Chương trình Ngữ văn THCS đã nêu lên mục tiêu khái quát: “Môn Ngữ văn có vị trí đặc biệt quan trọng trong việc thực hiện mục tiêu chung của giáo dục THCS, góp phần hình thành những con người có học vấn phổ thông cơ sở. Biết quý trọng gia đình, bạn bè. Có lòng yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội, biết hướng tới những tình cảm cao đẹp như lòng nhân ái, tinh thần tôn trọng lẽ phải, sự công bằng. Các em biết yêu cái đẹp, ghét cái xấu. Biết tự tu dưỡng bản thân, rèn tính tự lập, có tư duy sáng tạo. Biết cảm nhận giá trị chân thiện mỹ trong nghệ thuật, trong văn học. Có năng lực thực hành và tư duy sáng tạo”.
Mục tiêu cụ thể
Môn Ngữ văn giúp HS phát triển các năng lực và phẩm chất tổng quát và đặc thù, góp phần thực hiện mục tiêu giáo dục của nhà trường phổ thông nói chung. Năng lực tư duy, năng lực tưởng tượng và sáng tạo, năng lực hợp tác, năng lực tự học là những năng lực tổng quát, liên quan đến nhiều môn học. Năng lực sử dụng ngôn ngữ và năng lực thẩm mỹ mà chủ yếu là cảm thụ văn học là những năng lực đặc thù, trong đó năng lực sử dụng ngôn ngữ để giao tiếp và tư duy đóng vai trò hết sức quan trọng trong học tập của HS và công việc của các em trong tương lai, giúp các em nâng cao chất lượng cuộc sống. Đồng thời với quá trình giúp HS phát triển các năng lực tổng quát và đặc thù, môn Ngữ văn có sứ mạng giáo dục tình cảm và nhân cách cho người học. Cụ thể: 
+ Giúp HS phát triển năng lực giao tiếp ngôn ngữ ở tất cả các hình thức: đọc, viết, nói và nghe, trong đó bao gồm cả năng lực tìm kiếm và xử lí thông tin từ nhiều nguồn khác nhau để viết và nói; giúp HS sử dụng tiếng Việt chính xác, mạch lạc, có hiệu quả và sáng tạo với những mục đích khác nhau trong nhiều ngữ cảnh đa dạng. Ngoài ra, môn Ngữ văn cũng chú ý giúp HS phát triển năng lực giao tiếp bằng các phương tiện nghe nhìn hay phương tiện phi ngôn ngữ.
+ Thông qua những tác phẩm văn học đặc sắc, giúp HS phát triển năng lực thẩm mỹ, nhạy cảm và tinh tế với các sắc thái của tiếng Việt; giúp HS biết đọc và có hứng thú đọc các tác phẩm văn học, biết viết, thảo luận và có hứng thú viết, thảo luận về các tác phẩm văn học, nhờ đó các em có cơ hội khám phá bản thân và thế giới xung quanh, thấu hiểu con người, có cá tính và đời sống tâm hồn phong phú, có quan niệm sống và ứng xử nhân văn.
+ Giúp HS phát triển năng lực tư duy, đặc biệt là tư duy suy luận, phản biện, biết đánh giá tính hợp lí và ý nghĩa của những thông tin và ý tưởng được tiếp nhận; giúp HS phát triển năng lực tưởng tượng và sáng tạo, sự tự tin, năng lực tự lập, năng lực hợp tác và tinh thần cộng đồng.
+ Giúp HS hình thành và phát triển phương pháp học tập, nhất là phương pháp tự học để có thể tự học suốt đời và biết ứng dụng những kiến thức và kĩ năng học được vào cuộc sống. Nhờ được trang bị kiến thức, kĩ năng và có kinh nghiệm đọc nhiều kiểu văn bản (VB) khác nhau trong nhà trường, khi trưởng thành, HS có thể tự đọc sách để không ngừng nâng cao vốn tri thức và văn hóa cần thiết cho cuộc sống và công việc.
+ Trang bị cho HS những kiến thức phổ thông, cơ bản và hiện đại về tiếng Việt và văn học, góp phần phát triển vốn tri thức căn bản của một người có văn hóa. Giúp HS có được hiểu biết về mối quan hệ giữa ngôn ngữ và văn học với đời sống xã hội.
+ Bồi dưỡng cho HS có thái độ tích cực và tình yêu đối với tiếng Việt và văn học, qua đó biết trân trọng, giữ gìn và phát triển các giá trị văn hóa Việt Nam; có thói quen và niềm vui đọc sách; có tinh thần tiếp thu tinh hoa văn hóa của nhân loại, có khả năng hội nhập quốc tế, trở thành những công dân toàn cầu, nhưng luôn có ý thức về cội nguồn và bản sắc của dân tộc Việt Nam...
Như vậy, với các em học sinh lớp 9 nói riêng và học sinh THCS nói chung, cảm thụ tốt các tác phẩm thơ sẽ góp phần quan trọng vào việc thực hiện tốt mục tiêu môn học như đã nêu trên.
2.2 Đổi mới phương pháp dạy học theo hướng phát triển năng lực học sinh, đáp ứng yêu cầu đổi mới căn bản, toàn diện GDĐT
Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 4/11/2013 Hội nghị Trung ương 8 khóa XI về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo theo hướng chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã hội hóa, dân chủ hóa và hội nhập quốc tế đã nhấn mạnh: “Tiếp tục đổi mới phương pháp dạy học và đánh giá kết quả học tập, rèn luyện theo hướng phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo và phát triển năng lực tự học của người học”.
2.2.1.1 Mục tiêu tổng quát
+ Giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu, là sự nghiệp của Đảng, Nhà nước và của toàn dân. Đầu tư cho giáo dục là đầu tư phát triển, được ưu tiên đi trước trong các chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội.
+ Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo là đổi mới những vấn đề lớn, cốt lõi, cấp thiết, từ quan điểm, tư tưởng chỉ đạo đến mục tiêu, nội dung, phương pháp, cơ chế, chính sách, điều kiện bảo đảm thực hiện; đổi mới từ sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước đến hoạt động quản trị của các cơ sở Giáo dục - Đào tạo và việc tham gia của gia đình, cộng đồng, xã hội và bản thân người học; đổi mới ở tất cả các bậc học, ngành học. Trong quá trình đổi mới, cần kế thừa, phát huy những thành tựu, phát triển những nhân tố mới, tiếp thu có chọn lọc những kinh nghiệm của thế giới; kiên quyết chấn chỉnh những nhận thức, việc làm lệch lạc. Đổi mới phải bảo đảm tính hệ thống, tầm nhìn dài hạn, phù hợp với từng loại đối tượng và cấp học; các giải pháp phải đồng bộ, khả thi, có trọng tâm, trọng điểm, lộ trình, bước đi phù hợp.
+ Phát triển giáo dục và đào tạo là nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài. Chuyển mạnh quá trình giáo dục từ chủ yếu trang bị kiến thức sang phát triển toàn diện năng lực và phẩm chất người học. Học đi đôi với hành; lý luận gắn với thực tiễn; giáo dục nhà trường kết hợp với giáo dục gia đình và giáo dục xã hội.
+ Phát triển giáo dục và đào tạo phải gắn với nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội và bảo vệ Tổ quốc; với tiến bộ khoa học và công nghệ; phù hợp quy luật khách quan. Chuyển phát triển giáo dục và đào tạo từ chủ yếu theo số lượng sang chú trọng chất lượng và hiệu quả, đồng thời đáp ứng yêu cầu số lượng.
+ Đổi mới hệ thống giáo dục theo hướng mở, linh hoạt, liên thông giữa các bậc học, trình độ và giữa các phương thức giáo dục, đào tạo. Chuẩn hoá, hiện đại hoá giáo dục và đào tạo.
+ Chủ động phát huy mặt tích cực, hạn chế mặt tiêu cực của cơ chế thị trường, bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa trong phát triển giáo dục và đào tạo. Phát triển hài hòa, hỗ trợ giữa giáo dục công lập và ngoài công lập, giữa các vùng, miền. Ưu tiên đầu tư phát triển giáo dục và đào tạo đối với các vùng đặc biệt khó khăn, vùng dân tộc thiểu số, biên giới, hải đảo, vùng sâu, vùng xa và các đối tượng chính sách. Thực hiện dân chủ hóa, xã hội hóa giáo dục và đào tạo.
+ Chủ động, tích cực hội nhập quốc tế để phát triển giáo dục và đào tạo, đồng thời giáo dục và đào tạo phải đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế để phát triển đất nước.
+ Tạo chuyển biến căn bản, mạnh mẽ về chất lượng, hiệu quả giáo dục, đào tạo; đáp ứng ngày càng tốt hơn công cuộc xây dựng, bảo vệ Tổ quốc và nhu cầu học tập của nhân dân. Giáo dục con người Việt Nam phát triển toàn diện và phát huy tốt nhất tiềm năng, khả năng sáng tạo của mỗi cá nhân; yêu gia đình, yêu Tổ quốc, yêu đồng bào; sống tốt và làm việc hiệu quả.
 	+ Xây dựng nền giáo dục mở, thực học, thực nghiệp, dạy tốt, học tốt, quản lý tốt; có cơ cấu và phương thức giáo dục hợp lý, gắn với xây dựng xã hội học tập; bảo đảm các điều kiện nâng cao chất lượng; chuẩn hóa, hiện đại hoá, dân chủ hóa, xã hội hóa và hội nhập quốc tế hệ thống giáo dục và đào tạo; giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa và bản sắc dân tộc. Phấn đấu đến năm 2030, nền giáo dục Việt Nam đạt trình độ tiên tiến trong khu vực.
2.2.1.2 Mục tiêu cụ thể
Đối với giáo dục phổ thông, tập trung phát triển trí tuệ, thể chất, hình thành phẩm chất, năng lực công dân, phát hiện và bồi dưỡng năng khiếu, định hướng nghề nghiệp cho học sinh. Nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, chú trọng giáo dục lý tưởng, truyền thống, đạo đức, lối sống, ngoại ngữ, tin học, năng lực và kỹ năng thực hành, vận dụng kiến thức vào thực tiễn. Phát triển khả năng sáng tạo, tự học, khuyến khích học tập suốt đời. Hoàn thành việc xây dựng chương trình giáo dục phổ thông giai đoạn sau năm 2015. Bảo đảm cho học sinh có trình độ trung học cơ sở (hết lớp 9) có tri thức phổ thông nền tảng, đáp ứng yêu cầu phân luồng mạnh sau trung học cơ sở; trung học phổ thông phải tiếp cận nghề nghiệp và chuẩn bị cho giai đoạn học sau phổ thông có chất lượng. Nâng cao chất lượng phổ cập giáo dục, thực hiện giáo dục bắt buộc 9 năm từ sau năm 2020.
2.2.2 Định hướng của Bộ Giáo dục và Đào tạo
Năm học 2014 – 2015 Bộ Giáo dục và đào tạo đã chỉ đạo quyết liệt việc đổi mới trong giảng dạy. Trong đó đề cao: Chương trình giáo dục định hướng phát triển năng lực (còn gọi là dạy học định hướng kết quả đầu ra). Điều này được bàn đến nhiều từ những năm 90 của thế kỷ 20 và ngày nay đã trở thành xu hướng giáo dục quốc tế. Giáo dục định hướng phát triển năng lực nhằm mục tiêu phát triển năng lực người học.
Giáo dục định hướng năng lực nhằm đảm bảo chất lượng đầu ra của việc dạy học, thực hiện mục tiêu phát triển toàn diện các phẩm chất nhân cách, chú trọng năng lực vận dụng tri thức trong những tình huống thực tiễn nhằm chuẩn bị cho con người năng lực giải quyết các tình huống của cuộc sống và nghề nghiệp. Chương trình này nhấn mạnh vai trò của người học với tư cách chủ thể của quá trình nhận thức.
Khác với chương trình định hướng nội dung, chương trình dạy học định hướng phát triển năng lực tập trung vào việc mô tả chất lượng đầu ra, có thể coi là “sản phẩm cuối cùng” của quá trình dạy học. Việc quản lý chất lượng dạy học chuyển từ việc điều khiển “đầu vào” sang điều khiển “đầu ra”, tức là kết quả học tập của học sinh.
Như vậy, dạy học Ngữ văn theo chương trình định hướng phát triển năng lực hiện nay rất coi trọng phần liên hệ thực tế cuộc sống, coi trọng việc vận dụng kiến thức vào giải quyết các tình huống nảy sinh từ chính hiện thực đời sống hàng ngày của con người, của chính học sinh. Từ đó hình thành nhân cách, tư duy và kĩ năng sống của học sinh. Đó là một định hướng giáo dục rất thiết thực, coi trọng người học và đề cao thực tiễn.
Qua đó càng khẳng định: Khi dạy những vần thơ hay trong chương trình Ngữ văn 9 càng cần có sự đổi mới. Sáng kiến: “Tạo hứng thú cho học sinh khi cảm nhận những vần thơ hay trong chương trình Ngữ văn lớp 9 thông qua một số biện pháp tiếp nhận tích cực” là một hướng đi đáp ứng chủ chương của Đảng và Nhà nước về đào tạo con người trong thời kỳ mới. Đi đúng tinh thần của Bộ Giáo dục về chương trình giáo dục định hướng phát triển năng lực, trọng tâm từ năm học 2014 – 2015 và các năm học tiếp theo.
2.3 Thơ trữ tình và đặc điểm thơ trữ tình
2.3.1 Thơ trữ tình
Đã có rất nhiều quan điểm hay và sâu sắc về thơ trữ tình: Thơ là:
- "viên kim cương lấp lánh dưới ánh mặt trời" (Sóng Hồng).
- "thần hứng" (Platon).
- "ngọn lửa thần" (Đecgiavin). 
C. Mac thì cho rằng: "Thơ ca là niềm vui cao cả nhất mà loài người đã tạo ra cho mình". Biêlinxki lại viết: "Thơ,trước hết là cuộc đời,sau đó mới là nghệ thuật". Còn Chế Lan Viên lại dùng chính thơ để nói về thơ:
“Bài thơ anh anh làm một nửa mà thôi
Còn một nửa cho mùa thu làm lấy
Cái xào xạc hồn anh chính là xào xạc lá
Nó không là anh nhưng nó là mùa".
	Nói một cách khái quát:
- Thơ là một thể loại văn học được xây dựng bằng hình thức ngôn ngữ ngắn gọn súc tích, theo những quy luật ngữ âm nhất định, nhằm phản ánh tâm trạng, thái độ, tình cảm,... của người nghệ sĩ về đời sống thông qua những hình tượng nghệ thuật.
Trữ tình là phương thức phản ánh (hiện thực đời sống; hiện thực tâm trạng) bằng cách bộc lộ trực tiếp tình cảm, ý thức của tác giả thông qua cái tôi trữ tình, mang đậm dấu ấn cá nhân của chủ thể.
Thơ trữ tình dùng để chỉ chung các thể thơ thuộc loại trữ tình, trong đó nhà thơ bộc lộ một cách trực tiếp những cảm xúc riêng tư, cá thể về đời sống, thể hiện tư tưởng về con người, cuộc đời và thời đại nói chung. Nội dung của thơ trữ tình là biểu hiện tư tưởng, tình cảm làm sống dậy cái thế giới chủ thể của hiện thực khách quan, giúp ta đi sâu vào thế giới của những suy tư tâm trạng, nỗi niềm. 
2.3.2 Đặc điểm thơ trữ tình
2.3.2.1 Trữ tình là yếu tố quyết định tạo nên chất thơ
 Tác phẩm thơ luôn thiên về diễn tả những cảm xúc, rung động, suy tư của chính nhà thơ về cuộc đời. Những rung động ấy xét đến cùng là những tiếng dội của những sự kiện, những hiện tượng đời sống vào tâm hồn nhà thơ. Đây là đặc điểm cơ bản nhất của tác phẩm thơ. 
Đặc điểm này ta dễ dàng nhận thấy trong bài thơ “Bếp lửa” của tác giả Bằng Việt. Bài thơ "Bếp lửa" được viết năm 1963, lúc nhà thơ Bằng Việt đang học năm thứ hai tại Đại hoc Tổng hợp quốc gia Kiev (Ukraina, hồi đó còn thuộc Liên Xô). Nhà thơ Bằng Việt kể lại: “Những năm đầu theo học Luật tại đây tôi nhớ nhà kinh khủng. Tháng 9 ở bên đó trời se se lạnh, buổi sáng sương khói thường bay mờ mờ mặt đất, ngoài cửa sổ, trên các vòm cây, gợi nhớ cảnh mùa đông ở quê nhà. Mỗi buổi dậy sớm đi học, tôi hay nhớ đến khung cảnh một bếp lửa thân quen, nhớ lại hình ảnh bà nội lụi cụi dậy sớm nấu nồi xôi, luộc củ khoai củ sắn cho cả nhà”. Trong hoàn cảnh đó nhà thơ Bằng Việt đột nhiên nhớ lại thói quen bao nhiêu năm ấy của bà, những kỷ niệm ấu thơ như một cuốn phim cứ lần lần hiện lại, từ những năm nhà còn nhỏ tý, đi tản cư kháng chiến, rồi xa hơn nữa, là thời cả gia đình ông từ Huế đi ra Bắc, chuyến tàu gần như cuối cùng còn chạy trước thời tiêu thổ kháng chiến, đi dọc miền Trung dài dăc. Nhà thơ Bằng Việt thú nhận: “Tôi chẳng nhớ được gì ngoài tiếng hú còi tàu và tiếng chim tu hú kêu khăc khoải. Rồi lại cũng tiếng chim tu hú ấy vẫn kêu suốt những mùa vài chín dọc những triền sông dọc những bờ đê của cả vùng quê tôi, những năm tôi ở cùng bà”.
 Tất cả những suy nghĩ, nỗi ám ảnh đặc trưng của quê hương trên xứ người đó đã tạo nên cảm hứng cho nhà thơ Bằng Việt viết nên bài thơ “Bếp lửa”. Hay nói cách khác: Những tiếng dội của những sự kiện, những hiện tượng đời sống vào tâm hồn nhà thơ đã viết nên “Bếp lửa”.
2.3.2.2 Chủ thể trữ tình
Chủ thể trữ tình là con người đang cảm xúc, suy tư trong tác phẩm thơ, hiện diện, đối thoại với độc giả bằng những sắc thái tình cảm, thái độ tình cảm, luôn có mặt để thể hiện nội dung trữ tình của tác phẩm. 
Trong tác phẩm trữ tình, tình cảm, cảm xúc, tâm trạng, suy nghĩ ... được trình bày trực tiếp và làm thành nội dung chủ yếu của tác phẩm. Ở đây, nhà thơ có thể biểu hiện cảm xúc cá nhân mình mà không cần kèm theo bất cứ một sự miêu tả biến cố, sự kiện nào. Người đọc cảm nhận trước hết là thế giới nội tâm, là thái độ xúc cảm và tâm trạng của nhân vật trữ tình đối với con người, cuộc đời và thiên nhiên. Nhà thơ có thể không cần phải miêu tả kỹ về con người và những nguyên nhân cụ thể dẫn tới những tình cảm đó. Ðiều này chứng tỏ sự biểu hiện trực tiếp thế giới chủ quan của tác giả là đặc điểm tiêu biểu, đầu tiên của tác phẩm trữ tình. Đọc “Viếng lăng Bác” của Viễn Phương, những dòng thơ:
“Vẫn biết trời xanh là mãi mãi
Mà sao nghe nhói ở trong tim”
Hay:
“Mai về miền Nam thương trào nước mắt”
Người đọc thấy được từ những câu thơ tình cảm chân thành được bộc lộ trực tiếp, được gọi thành tên “nghe nhói trong tim”, “thương trào nước mắt”. Lời thơ giản dị không cầu kì, đẽo gọt nhưng cảm xúc thì sâu lắng. Nỗi đau mất mát ở đây là nỗi đau nhói buốt, nhức nhối, quặn thắt nơi trái tim. Đó là tình cảm chỉ có thể có được giữa những người có tình thân ruột thịt.
2.3.2.3 Thơ trữ tình phản ánh thế giới khách quan nhằm biểu hiện thế giới chủ quan. 
Tác phẩm trữ tình biểu hiện cảm xúc chủ quan của nhà thơ nhưng điều đó cũng được xác lập trong mối quan hệ giữa con người và thực tại khách quan bởi vì mọi cảm xúc, tâm trạng, suy nghĩ của con người bao giờ cũng đều là cảm xúc về cái gì, tâm trạng trước vấn đề gì? Do đó, hiện tượng cuộc sống vẫn được thể hiện trong tác phẩm trữ tình. Mặc dù thể hiện thế giới chủ quan của con người, tác phẩm trữ tình vẫn coi trọng việc miêu tả các sự vật, hiện tượng trong đời sống khách quan bằng các chi tiết chân thật, sinh động. Như vậy, tác phẩm trữ tình cũng phản ánh thế giới khách quan nhưng chức năng chủ yếu của nó là nhằm biểu hiện những cảm xúc, tâm trạng, suy nghĩ ...của con người. Ví như trong thơ Thanh Hải, khi nhà thơ viết:
“Một mùa xuân nho nhỏ
Lặng lẽ dâng cho đời
Dù là tuổi hai mươi
Dù là khi tóc bạc”
Thì trước hết đó là cảm xúc mang tính chủ quan: Khát vọng hòa nhập và dâng hiến cho đời. Nhưng đồng thời đó cũng phản ánh thế giới khách quan: Đó là khát vọng không chỉ của riêng nhà thơ mà là khát vọng của những con người Việt Nam yêu nước khác. Nhà thơ đã rất khiêm nhường và tinh tế khi bộc lộ cảm xúc vừa riêng vừa chung đó.
2.3.2.4 Ngôn ngữ thơ trữ tình
Ngôn ngữ hàm súc, cô đọng, giàu tính nhịp điệu, giàu tính nhạc, tính họa và phải có tính biểu hiện: Văn học nói chung, thơ ca nói riêng phản ánh hiện thực cuộc sống qua hình tượng nghệ thuật. Nghĩa là điều mà nhà nghệ sĩ nhận thức, suy tư về cuộc sống luôn được thể hiện một cách gián tiếp. Để làm được điều này người nghệ sĩ đi vào khai thác khả năng biểu hiện của ngôn ngữ. Đó là cách tổ chức sắp xếp ngôn ngữ sao cho từ một hình thức biểu đạt có thể có nhiều nội dung biểu đạt. Đó là quá trình chuyển nghĩa tạo nên lượng ngữ nghĩa kép trong thơ.
2.4 Quan niệm về thơ hay
Trước hết, thơ hay phải là những vần thơ được sản sinh ra từ cuộc sống. Thơ phải là những cảm xúc chân thành về cuộc sống. Bài thơ là kết quả sự cộng hưởng nhịp đập trái tim nhà thơ với những "tiếng đời lăn náo nức". Những vần thơ của Nguyễn Du, Nguyễn Trãi trở thành những kiệt tác bất hủ bởi đó là nỗi lòng trăn trở của nhà thơ trước cuộc đời lắm nỗi dâu bể. Xuất phát từ cuộc đời, vì con người thì thơ mới có thể sống cùng cuộc đời. 
Thơ hay phải được nhiều người đọc yêu thích, có được sự đồng điệu tâm hồn của nhiều người đọc, nói đến niềm vui nỗi buồn của nhiều người. Bởi "Thơ là những điệu hồn đi tìm những tâm hồn đồng điệu" (Tố Hữu). Mặc dù bài thơ xuất phát từ một trạng thái cảm xúc cá nhân của tác giả song đó phải là những cảm xúc chân thực, những cảm xúc trong sáng. Nhà thơ với khả năng trực giác đặc biệt nhạy cảm và vốn ngôn ngữ tinh tế của mình đã nói hộ chúng ta những khao khát, những đam mê, những rung động chân thành trước cuộc sống. . Với tất cả mọi người, bài thơ hay trước hết phải là bài thơ có chứa đựng nỗi niềm suy tư của chính họ. Thơ hay phải thể hiện những tình cảm tinh tế, phải làm cho tâm hồn người đọc phong phú hơn. Nhà thơ là người có khả năng cảm nhận những biến thái tinh tế của cuộc sống mà không phải người bình thường nào cũng có khả năng khám phá. Vì thế, thơ sẽ là nơi để người đọc thông qua nhà thơ, hiểu thêm về cuộc sống xung quanh. 
Thơ là nghệ thuật ngôn từ nên bài thơ hay ngôn từ phải đẹp, phong phú, mới mẻ, vừa thể hiện được vẻ đẹp của ngôn ngữ dân tộc, vừa làm giàu có ngôn ngữ dân tộc. Thơ phải hàm súc, phải gợi mở cho người đọc những ngẫm nghĩ, suy tư, làm giàu có đời sống nội tâm của con người, kích thích con người suy nghĩ về cuộc sống để con người sống có tâm hồn hơn. 
Một bài thơ hay phải là bài thơ có sự kết hợp hài hòa giá trị nội dung, nghệ thuật, cảm xúc và sáng tạo của người viết.
2.5 Quan niệm về tiếp nhận tích cực trong cảm thụ văn học nói chung và thơ nói riêng.
Nội dung chủ yếu của tiếp nhận văn học nói chung và thơ trữ tình nói riêng là hoạt động chiếm lĩnh các giá trị tư tưởng, thẩm mĩ của tác phẩm. Tiếp nhận văn học đòi hỏi sự giao tiếp, sự tranh luận, thảo luận giữa người đọc - học sinh với giáo viên, giữa học sinh với nhau về tác phẩm. Ðiều này cũng phù hợp với một trong những nguyên tắc dạy học của lí luận dạy học hiện đại: học bằng cách khám phá (learnning by discovering). Nguyên tắc dạy học này trái ngược với sự áp đặt kiến thức một chiều từ phía giáo viên cho người học. Giáo viên phải là người tổ chức và khuyến khích việc thảo luận, trao đổi ý kiến trong lớp học. Ðiều kiện giao tiếp, đối thoại của tiếp nhận văn học, trình độ học sinh, điều kiện giảng dạy và học tập, chương trình, sách giáo khoa, mục đích giáo dục là những yếu tố chi phối việc sử dụng các phương pháp dạy học văn.
- Khái niệm tiếp nhận: “Tiếp nhận văn học là một cuộc giao tiếp, đối thoại tự do giữa người đọc và tác giả thông qua tác phẩm. Nó đòi hỏi

File đính kèm:

  • docsang_kien_kinh_nghiem_tao_hung_thu_cho_hoc_sinh_khi_cam_nhan.doc