Sáng kiến kinh nghiệm Tích hợp liên môn trong dạy học lịch sử

Thực trạng của việc dạy và học lịch sử trong nhà trường phổ thông hiện còn những tồn tại là nội dung của nhiều bài giảng lịch sử rất khô khan, nhiều sự kiện nên chưa tạo được hứng thú học lịch sử đối với học sinh. Học sinh hiểu một cách rời rạc, nông cạn về kiến thức lịch sử, không nắm được mối liên hệ hữu cơ giữa các tri thức thuộc lĩnh vực đời sống xã hội, về kiến thức liên môn…

Dạy học theo chủ đề tích hợp là một trong những nguyên tắc quan trọng trong dạy học nói chung và dạy học lịch sử nói riêng, đây được coi là một quan niệm dạy học hiện đại, nhằm phát huy tính tích cực của học sinh, đồng thời nâng cao chất lượng giáo dục. Dạy học tích hợp làm cho người học sử nhận thức được sự phát triển xã hội một cách liên tục, thống nhất, thấy được mối liên hệ hữu cơ giữa các lĩnh vực của đời sống xã hội, khắc phục được tính tản mạn rời rạc trong kiến thức.

Dạy học liên môn trong môn Lịch sử là hình thức liên kết những kiến thức giao thoa với môn Lịch sử như Ngữ văn, Địa lí, Mĩ thuật, Giáo dục công dân, Rèn luyện kĩ năng sống, Giáo dục bảo vệ di sản văn hóa địa phương… để học sinh tiếp thu kiến thức, biết vận dụng kiến thức lịch sử vào cuộc sống và ngược lại từ cuộc sống để giải quyết các vấn đề liên quan đến lịch sử…

doc 29 trang Anh Hoàng 27/05/2023 2660
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Tích hợp liên môn trong dạy học lịch sử", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Tích hợp liên môn trong dạy học lịch sử

Sáng kiến kinh nghiệm Tích hợp liên môn trong dạy học lịch sử
THÔNG TIN CHUNG VỀ SÁNG KIẾN
 1. Tên sáng kiến: Tích hợp liên môn trong dạy học lịch sử.
2. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến: Môn lịch sử trường THCS Ninh Thành.
Tác giả : 
Họ và tên : Đào Thị Mai Phương N÷
Ngày tháng năm sinh : 01/8/1978.
Trình độ chuyên môn: CĐ Văn – Sử. Đại học Văn .
Chức vụ- Đơn vị công tác : Giáo viên trường THCS Ninh Thành- Tổ phó tổ Lao động xã hội.
Điện thoại: 0983624356.
Chủ đầu tư tạo ra sáng kiến: Trường THCS Ninh Thành, xã Ninh Thành, huyện Ninh Giang, tỉnh Hải Dương.
- Điện thoại: 03203760668
Đơn vị áp dụng sáng kiến lần đầu: Trường THCS Ninh Thành.
Các điều kiện để áp dụng sáng kiến : Đối tượng học sinh.
Thời gian áp dụng sáng kiến lần đầu : Năm học 2015-2016.
 TÁC GIẢ XÁC NHẬN CỦA ĐƠN VỊ ÁP DỤNG
 §ào Thị Mai Phương SÁNG KIẾN
	 XÁC NHẬN CỦA PHÒNG GD& ĐT 
 TÓM TẮT SÁNG KIẾN
Thực trạng của việc dạy và học lịch sử trong nhà trường phổ thông hiện còn những tồn tại là nội dung của nhiều bài giảng lịch sử rất khô khan, nhiều sự kiện nên chưa tạo được hứng thú học lịch sử đối với học sinh. Học sinh hiểu một cách rời rạc, nông cạn về kiến thức lịch sử, không nắm được mối liên hệ hữu cơ giữa các tri thức thuộc lĩnh vực đời sống xã hội, về kiến thức liên môn
Dạy học theo chủ đề tích hợp là một trong những nguyên tắc quan trọng trong dạy học nói chung và dạy học lịch sử nói riêng, đây được coi là một quan niệm dạy học hiện đại, nhằm phát huy tính tích cực của học sinh, đồng thời nâng cao chất lượng giáo dục. Dạy học tích hợp làm cho người học sử nhận thức được sự phát triển xã hội một cách liên tục, thống nhất, thấy được mối liên hệ hữu cơ giữa các lĩnh vực của đời sống xã hội, khắc phục được tính tản mạn rời rạc trong kiến thức.
Dạy học liên môn trong môn Lịch sử là hình thức liên kết những kiến thức giao thoa với môn Lịch sử như Ngữ văn, Địa lí, Mĩ thuật, Giáo dục công dân, Rèn luyện kĩ năng sống, Giáo dục bảo vệ di sản văn hóa địa phương để học sinh tiếp thu kiến thức, biết vận dụng kiến thức lịch sử vào cuộc sống và ngược lại từ cuộc sống để giải quyết các vấn đề liên quan đến lịch sử
Trong chương trình THCS, giáo viên có thể sử dụng phương pháp tích hợp trong hầu hết các bài dạy, từ đó làm tăng hứng thú cho học sinh, giúp các em hăng say ham học hơn ở bộ môn Lịch sử bởi sự nhàm chán dần bị thay thế . 
Việc sử dụng “ Tích hợp liên môn trong dạy học lịch sử ”có tác dụng rất lớn, đỡ mất thời gian học, học sinh tiếp thu bài một cánh nhanh nhất, nhớ lâu, dễ hiểu, tránh được một giờ học gò bó, áp đặt. Học sinh tiếp thu bài một cách nhẹ nhàng giờ học diễn ra sinh động đầy hứng thú. Qua đó học sinh biết được hiện tượng, sự kiện lịch sử gắn liền với kiến thức bộ môn. Học sinh phân tích, so sánh hiểu được bản chất cuả sự kiện, đặc thù riêng của môĩ vùng, môĩ chiến dịch, mỗi địa danh Học sinh sẽ thấy được cái hay cái đẹp trong khi học bộ môn lịch sử. Khi giảng dạy lịch sử cô giáo đọc thơ, văn minh hoạ, cả lớp chăm chú lắng nghe và tỏ ra rất thích thú, sau tiết học, nhiều em còn nhờ cô giáo đọc để chép vào sổ tay, hoặc qua tiết học này sẽ giúp các em tìm hiểu được thêm kiến thức môn mĩ thuật trong việc xây dựng những công trình kiến trúc, ngoài ra học Lịch sử còn giúp các em có thêm kĩ năng sống, dạy cho các em biết giữ gìn và bảo vệ thành quả các di tích lịch sử mà các em được học trong bài. Những tiết học như thế đã để lại trong lòng các em những ấn tượng lâu bền. Chắc chắn những sự kiện trong bài học Lịch sử sẽ lưu lại trong ký ức các em sâu hơn, lâu hơn do đó chất lượng giảng dạy và học môn lịch sử được nâng lên rõ rệt , góp phần không nhỏ vào việc nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện cho học sinh. Sau đây tôi xin trình bày sáng kiến của mình.
 MÔ TẢ SÁNG KIẾN. 
1. Hoàn cảnh nảy sinh sáng kiến .
1.1. Theo từ điển Tiếng Việt: Tích hợp là sự kết hợp những hoạt động, chương trình hoặc các thành phần khác nhau thành một khối chức năng. Tích hợp có nghĩa là sự thống nhất, sự hòa hợp, sự kết hợp.
1.2. Theo từ điển giáo dục học: Tích hợp là hành động liên kết các đối tượng nghiên cứu, giảng dạy, học tập của cùng một lĩnh vực hoặc vài lĩnh vực khác nhau trong cùng một kế hoạch dạy học.
1.3. Trong tiếng Anh, tích hợp có nghĩa là toàn bộ, toàn thể. Có nghĩa là sự phối hợp các hoạt động khác nhau, các thành phần khác nhau của một hệ thống ấy.
Tích hợp là một xu thế, một trào lưu dạy học và giáo dục phổ biến trên thế giới trong nhiều thập kỉ qua. Đưa tư tưởng sư phạm tích hợp vào trong quá trình dạy học là cần thiết. Dạy học tích hợp là một xu hướng của lí luận dạy học và được nhiều nước trên thế giới thực hiện. Quan điểm dạy học tích hợp được xem là định hướng lí luận của chương trình giáo dục Việt Nam hiện hành và những năm sắp tới.
 “ Tích hợp liên môn trong dạy học lịch sử ” là yêu cầu của mục tiêu dạy học phát triển năng lực học sinh, đòi hỏi phải tăng cường yêu cầu học sinh vận dụng kiến thức vào giải quyết những vấn đề thực tiễn. Khi giải quyết một vấn đề trong thực tiễn, bao gồm cả tự nhiên và xã hội, đòi hỏi học sinh phải vận dụng kiến thức tổng hợp, liên quan đến nhiều môn học. Vì vậy, dạy học cần phải tăng cường theo hướng tích hợp, liên môn .
        Với đề tài này, tôi sử dụng kiến thức một số môn học khác như Địa Lí, Ngữ Văn, GDCD, Mĩ thuật ... để giảng dạy và làm nổi bật những nội dung trọng tâm của từng bài. Quá trình thực hiện đề tài, tôi mong muốn giờ học Lịch sử phải thực sự là một giờ học hấp dẫn, có ý nghĩa giáo dục, giáo dưỡng và thực sự tạo được hứng thú học tập và phát triển toàn diện cho học sinh.
Thực trạng của vấn đề.
2.1. “ Tích hợp liên môn trong dạy học lịch sử ” có nghĩa là đưa những nội dung giáo dục có liên quan vào quá trình dạy học các môn học như: tích hợp giáo dục đạo đức, lối sống ; giáo dục pháp luật; giáo dục chủ quyền quốc gia về biên giới, biển, đảo; giáo dục sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả, bảo vệ môi trường, an toàn giao thông...
 2.2. “ Tích hợp liên môn trong dạy học lịch sử ” là phải xác định các nội dung kiến thức liên quan đến hai hay nhiều môn học để dạy học, tránh việc học sinh phải học lại nhiều lần cùng một nội dung kiến thức ở các môn học khác nhau. Đối với những kiến thức liên môn nhưng có một môn học chiếm ưu thế thì có thể bố trí dạy trong chương trình của môn đó và không dạy lại ở các môn khác. Trường hợp nội dung kiến thức có tính liên môn cao hơn thì sẽ tách ra thành các chủ đề liên môn để tổ chức dạy học riêng vào một thời điểm phù hợp, song song với quá trình dạy học các bộ môn liên quan.
2.3. “ Tích hợp liên môn trong dạy học lịch sử ” nhằm giúp học sinh nắm vững kiến thức , thành thạo kĩ năng , phát triển phương pháp làm việc , có cách học tập thông minh , biết vận dụng sáng tạo kiến thức , kĩ năng và phương pháp trong hoạt động học tập . Cho đến nay, tích hợp vẫn là một xu thế dạy học hiện đại và ngày càng được quan tâm . Đây thật sự là con đường đổi mới phương pháp học tập , đổi mới cách dạy và cách học để góp phần giải quyết một số vấn đề của xã hội mới nảy sinh một cách kịp thời trong khi thực hiện chương trình giáo dục . 
2.4. “ Tích hợp liên môn trong dạy học lịch sử ” còn giúp tiết kiệm thời gian trong dạy học , góp phần giảm tải chương trình , đồng thời đa dạng hóa hình thức tổ chức hoạt động dạy học . Dạy học tích hợp liên môn sẽ giúp học sinh không phải học lại nhiều lần cùng một nội dung kiến thức ở các môn học khác nhau , không có được sự hiểu biết tổng quát cũng như khả năng ứng dụng tổng hợp vào thực tiễn.
3. Các giải pháp, biện pháp thực hiện.
 3.1 . Thiết kế giáo án tích hợp liên môn trong dạy học lịch sử.
   3.1.1. Các bước để soạn một giáo án theo hướng tích hợp liên môn.     
 Giáo án giờ học tích hợp liên môn không phải là một bản đề cương kiến thức để giáo viên lên lớp giảng giải, truyền thụ áp đặt cho học sinh, mà là một bản thiết kế các hoạt động, thao tác nhằm tổ chức cho HS thực hiện trong giờ lên lớp để lĩnh hội tri thức, phát triển năng lực và nhân cách theo mục đích giáo dục và giáo dưỡng của bộ môn. Đó là bản thiết kế gồm hai phần : 
- Một là, hệ thống các tình huống dạy học được đặt ra từ nội dung khách quan của bài dạy, phù hợp với tính chất và trình độ tiếp nhận của học sinh. 
- Hai là, một hệ thống các hoạt động, thao tác tương ứng với các tình huống trên do giáo viên sắp xếp, tổ chức hợp lí nhằm hướng dẫn HS từng bước tiếp cận, chiếm lĩnh bài học một cách tích cực và sáng tạo. 
      Thiết kế giáo án giờ học tích hợp liên môn phải bám chặt vào những kiến thức các bộ môn có liên quan.
       Thiết kế giáo án giờ học tích hợp liên môn phải bảo đảm nội dung và cấu trúc đặc thù nhưng không gò ép vào một khuôn mẫu cứng nhắc mà cần tạo ra những chân trời mở cho sự tìm tòi sáng tạo trong các phương án tiếp nhận của học sinh, trên cơ sở bảo đảm được chủ đích, yêu cầu chung của giờ học.
       Nội dung dạy học của thiết kế giáo án tích hợp liên môn  phải làm rõ những tri thức và kĩ năng cần hình thành, tích luỹ cho HS qua phân tích, chiếm lĩnh kiến thức; mặt khác, phải chú trọng nội dung tích hợp giữa tri thức bộ môn mình dạy với các bộ môn khác.
        Giáo án giờ học tích hợp liên môn theo quan điểm tích hợp phải chú trọng thiết kế các tình huống tích hợp và tương ứng là các hoạt động phức hợp để học sinh vận dụng phối hợp các tri thức và kĩ năng của các phân môn vào xử lí các tình huống  đặt ra, qua đó chẳng những lĩnh hội được những tri thức và kĩ năng riêng rẽ của từng phân môn mà còn chiếm lĩnh tri thức và phát triển năng lực tích hợp.
       Giáo viên phải tìm hiểu sâu hơn những kiến thức thuộc các môn học khác.
        Vấn đề tâm lý chủ yếu vẫn quen dạy theo chủ đề đơn môn nên khi dạy theo chủ đề tích hợp, liên môn, các giáo viên sẽ  vất vả hơn, phải xem xét, rà soát nội dung chương trình, sách giáo khoa (SGK) hiện hành để loại bỏ những thông tin cũ, lạc hậu, đồng thời bổ sung, cập nhật những thông tin mới, phù hợp. Nội dung của phương pháp dạy tích hợp, liên môn cũng yêu cầu GV cấu trúc, sắp xếp lại nội dung dạy học trong chương trình hiện hành theo định hướng phát triển năng lực học sinh nên không tránh khỏi làm cho giáo viên có cảm giác ngại thay đổi.
       Môi trường " Trường học kết nối ” rất thuận lợi để giáo viên đổi mới trong dạy tích hợp, liên môn.
3. 1. 2. Phương pháp dạy học theo hướng tích hợp liên môn.
        Phương pháp dạy học theo hướng tích hợp liên môn là lồng ghép nội dung tích hợp vào các bài dạy, tùy theo từng môn học mà lồng ghép tích hợp ở các mức độ như liên hệ, lồng ghép bộ phận hay là toàn phần,( Phần nội dung bài học, phần bài tập hay là tổng kết toàn bài...) Khi tích hợp giáo viên cần sử dụng ngôn từ kết nối sao cho lô- gic và hài hòa....từ  đó giáo dục và rèn kĩ năng sống, giá trị sống cho học sinh.
         Để nâng cao hiệu quả của môn học tích hợp liên môn , giáo viên có thể sử dụng một số phương pháp để dạy học tích hợp như sau:
             + Dạy học theo dự án.
             + Phương pháp trực quan.
             + Phương pháp thực địa.
             + Phương pháp dạy học đặt và giải quyết vấn đề.
             + Phương pháp khăn trải bàn . . . . . .
 Trong các phương pháp trên, chúng ta thường sử dụng phương pháp thứ tư đó là: Phương pháp dạy học đặt và giải quyết vấn đề. Phương pháp dạy học đặt và giải quyết vấn đề là phương pháp dạy học trong đó giáo viên tạo ra những tình huống có vấn đề, điều khiển học sinh phát hiện vấn đề, hoạt động tự giác, tích cực, chủ động, sáng tạo để giải quyết vấn đề và thông qua đó chiếm lĩnh tri thức, rèn luyện kĩ năng và đạt được những mục đích học tập khác. Đặc trưng cơ bản của phương pháp dạy học đặt và giải quyết vấn  là “tình huống gợi vấn đề” vì “Tư duy chỉ bắt đầu khi xuất hiện tình huống có vấn đề”.
 3.1.3. Tác dụng khi thực hiện hương pháp dạy học theo hướng tích hợp liên môn.
 Dạy học theo hướng tích hợp liên môn giúp cho giờ học sẽ trở nên sinh động hơn, vì không chỉ có giáo viên là người trình bày mà học sinh cũng tham gia vào quá trình tiếp nhận kiến thức, từ đó phát huy tính tích cực củahọcsinh.
     Dạy học theo hướng tích hợp liên môn cũng góp phần phát triển tư duy liên hệ, liên tưởng ở học sinh. Tạo cho học sinh một thói quen trong tư duy, lập luận tức là khi xem xét một vấn đề phải đặt chúng trong một hệ quy chiếu, từ đó mời có thể nhận thức vấn đề một cách thấu đáo.
   - Giúp học sinh hứng thú học tập, từ đó khắc sâu được kiến thức đã học.
  -  Hiểu được bản chất của kế hoạch dạy học tích hợp.
   - Làm cho quá trình học tập có ý nghĩa.
     Bằng cách gắn học tập với cuộc sống hàng ngày, trong quan hệ với các tình huống cụ thể mà học sinh sẽ gặp sau này, hòa nhập thế giới học đường với thế giới cuộc sống.
    Dạy cho học sinh sử dụng kiến thức trong tình huống cụ thể.
 Thay vì tham nhồi nhét cho học sinh nhiều kiến thức lí thuyết đủ loại, dạy học tích hợp chú trọng tập dượt cho học sinh vận dụng các kiến thức kĩ năng học được vào các tình huống thực tế, có ích cho cuộc sống sau này làm công dân, làm người lao động, làm cha mẹ, có năng lực sống tự lập.
 3.1.4. Xác lập mối quan hệ giữa các khái niệm đã học.
      Trong quá trình học tập, học sinh có thể lần lượt học những môn học khác nhau, những phần khác nhau trong mỗi môn học nhưng học sinh phải biết đặt các khái niệm đã học trong những mối quan hệ hệ thống trong phạm vi từng môn học cũng như giữa các môn học khác nhau. Thông tin càng đa dạng, phong phú thì tính hệ thống phải càng cao, có như vậy thì các em mới thực sự làm chủ được kiến thức và mới vận dụng được kiến thức đã học khi phải đương đầu với một tình huống thách thức, bất ngờ, chưa từng gặp.
 3. 2. Tổ chức giờ dạy tích hợp liên môn trong dạy học lịch sử.   
     Tổ chức giờ học trên lớp là tiến trình thực thi bản kế hoạch phối hợp hoạt động của giáo viên và học sinh theo một cơ cấu sư phạm hợp lí, khoa học, trong đó giáo viên giữ vai trò, chức năng tổ chức, hướng dẫn, định hướng chứ không phải truyền thụ áp đặt một chiều. Học sinh được đặt vào vị trí trung tâm của quá trình tiếp nhận, đóng vai trò chủ thể cảm thụ, nhận thức thẩm mĩ, trực tiếp tiến hành hoạt động tiếp cận, khám phá, chiếm lĩnh kiến thức.
       Tổ chức hoạt động đọc hiểu  vận dụng kiến thức liên môn trên lớp, giáo viên  phải chú trọng mối quan hệ giữa học sinh và nội dung dạy học, phải coi đây là mối quan hệ cơ bản, quan trọng nhất trong cơ chế giờ học. Muốn vậy, giáo viên  phải từ bỏ vai trò, chức năng truyền thống là truyền đạt kiến thức có sẵn cho học sinh, còn học sinh không thể duy trì thói quen nghe giảng, ghi chép, học thuộc, rồi “làm bài” theo lối tái hiện, sao chép, làm thui chột dần năng lực tư duy sáng tạo, khả năng tự đọc, tự tìm tòi, xử lí thông tin, tổ chức các kiến thức một cách sáng tạo.
       Tổ chức chủ đề tích hợp liên môn tuyệt đối không cho học sinh biết trước hệ thống câu hỏi và nội dung kiến thức mà chúng ta chỉ thông báo chủ đề dạy học để các em tự tìm tòi, khám phá nội dung liên quan.
 * Ví dụ . Khi sử dụng phương pháp tích hợp liên môn trong dạy học lịch sử ở bài 20-lịch sử 7 : Nước Đại Việt thời Lê sơ (1428-1527). GV có thể sử dụng kiến thức liên môn các môn học như: Mĩ thuật; Giáo dục công dân, Văn học; Rèn kĩ năng sống cho học sinh.....
 * Tích hợp Ngữ văn: 
 + Khi dạy phần tình hình giáo dục, khoa cử thời Lê sơ, giáo viên nêu vấn đề: 
 ? Nội dung học tập thi cử thời Lê sơ? 
 GV sẽ giải thích để học sinh thấy được nội dung học tập, thi cử thời Lê sơ là các sách của đạo Nho , chủ yếu có “Tứ thư” và “Ngũ kinh”.
 “Tứ thư”: Gồm có :Đại Học; Trung Dung; Luận Ngữ; Mạnh Tử.
 “ Ngũ Kinh “ : Kinh Thi; kinh Thư; kinh Dịch; kinh Lễ; kinh Xuân Thu. Đây được coi là bộ sách giáo khoa chính thức dành cho hoạt động khoa cử của người Việt .
 Nho giáo do Khổng Tử sáng lập ra ở Trung Quốc từ TK VI đến TK V TCN và được truyền bá vào nước ta từ TK I đến TK VI. Theo Nho giáo mọi người phải coi Vua là Thiên Tử (con trời), có quyền quyết định tất cả , vì vậy Nho giáo phục vụ đắc lực cho bộ máy nhà nước tập quyền . Nho giáo chiếm địa vị độc tôn và được coi là quốc giáo nên Phật giáo và Đạo giáo bị hạn chế.
 ? Em hãy trình bày thành tựu nổi bật về văn học thời Lê sơ ?
 - Văn học chữ Hán: Quân trung từ mệnh tập; Quỳnh uyển cửu ca và đặc biệt phải kể đến là tác phẩm Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi.Bình Ngô đại cáo là một văn kiện lịch sử , cuối năm 1427( cũng có tài liệu cổ cho rằng dầu năm 1428) được lệnh của Lê Lợi , Nguyễn Trãi viết Bình Ngô đại cáo và văn bản này được công bố vào tháng 4/1428 , bố cáo cho toàn quân , toàn dân biết sự nghiệp bình Ngô đã hoàn thành thắng lợi , quân thù đã thảm bại và phải rút khỏi nước ta , một vận hội mới đã mở ra cho giang sơn xã tắc. Đây là một thành tựu đột xuất của lịch sử tư tưởng Việt Nam thời ấy.
 - Văn học chữ Nôm: Thập giới cô hồn quốc ngữ văn ; Hồng Đức quốc âm thi tập - Lê Thánh Tông và tập Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi. Quốc âm thi tập là tập thơ Nôm của Nguyễn Trãi , đây là tập thơ Nôm cổ nhất, phong phú nhất của Việt Nam còn lại đến ngày nay gồm 254 bài . Đặc biệt là ngôn từ trong tác phẩm thường là từ Thuần việt thay từ Hán Việt.
 ? Em hãy nêu nội dung đoạn trích? 
 “Như nước Đại Việt ta từ trước
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu
Núi sông bờ cõi đã chí
Phong tục Bắc- Nam cũng khác
Từ Triệu, Đinh, Lý , Trần bao đời gây nền độc lập
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên hùng cứ một phương
Tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau
Song hào kiệt đời nào cũng có...”
 (Trích Bình Ngô đại cáo- Nguyễn Trãi.)
 Giáo viên sử dụng kiến thức liên môn môn Ngữ văn để học sinh hiểu được tác giả, nội dung đoạn trích : 
 Nguyễn Trãi là một nhà quân sự lỗi lạc, một nhà quân sự tài ba, không những thế ông còn là một nhà thơ, nhà văn kiệt xuất của cả dân tộc. Nguyễn Trãi đã để lại cho nền văn học nước nhà một khối lượng tác phẩm đồ sộ, trong số đó phải kể đến “Bình Ngô đại cáo”. Đây là bài cáo mà Nguyễn Trãi viết thay vua Lê Thái Tổ để tuyên cáo rộng rãi trong nhân dân về quá trình kháng chiến và thắng lợi của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn.
 Tinh thần yêu nước được thể hiện trong “Bình Ngô đại cáo” của Nguyễn Trãi là bản anh hùng ca ca ngợi chiến thắng vĩ đại của dân tộc ta ở TKXV, tác phẩm vừa có giá trị lịch sử vừa có giá trị văn học , không chỉ lưu giữ những sự kiện lịch sử mà còn lưu truyền lòng yêu nước , tự hào dân tộc đến các thế hệ người Việt Nam. 
 ? Cuộc sống của người nông dân được thể hiện như thế nào qua những câu thơ sau ? 
“ ... Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn
Vùi con đỏ xuống hầm tai vạ...
Người bị ép xuống biển dòng lưng mò ngọc
Ngán thay cá mập thuồng luồng
Kẻ bị đem vào núi đãi cát tìm vàng
Khốn nỗi rừng sâu nước độc ...”
( Trích Bình Ngô đại cáo –Nguyễn Trãi)
 Những câu thơ trên được trích trong Bình Ngô đại cáo – Nguyễn Trãi , nói về cuộc sống của nhân dân ta dưới ách đô hộ của nhà Minh chính quyền đô hộ ra sức bóc lột nhân dân, chúng đặt ra hàng trăm thứ thuế, vơ vét khoáng sản tài nguyên khiến đời sống nhân dân ta bị bần cùng lầm than.
 Tiếp đó chiến tranh xảy ra làm cho ruộng đồng làng xóm bị tiêu điều, những nơi chiến tranh đi qua trở thành bãi chiến trường, nhân dân loạn lạc phiêu tán khắp nơi.
 Sau cuộc KN Lam Sơn toàn thắng , đời sống của nhân dân ta có nhiều thay đổi , thể hiện ở những câu ca : 
“ Thời vua Thái Tổ Thái Tông
Thóc lúa đầy đồng , trâu chẳng buồn ăn”
 * Tích hợp môn Giáo dục công dân: 
 + Khi dạy phần khoa cử thời Lê sơ, giáo viên nêu vấn đề: 
 ? Những người đỗ đạt trong thi cử sẽ được nhà nước đối đãi như thế nào? 
 Những người đỗ tiến sĩ sẽ được ban mũ , áo, phẩm tước , vinh quy bái tổ, khắc tên vào bia đá và được bổ nhiệm làm quan.
 Sau khi đưa ra kiến thức trọng tâm, giáo viên sử dụng kiến thức môn Giáo dục công dân để khắc sâu hơn nội dung đối với học sinh: 
? Ngày nay, ngành giáo dục và các trường học đã có những chính sách gì đối với học sinh có thành tích cao trong học tập? 
 Giáo viên liên hệ đến những tấm gương nghèo vượt khó, những học sinh có hoàn cảnh khó khăn nhưng đã đạt thành tích cao trong học tập để động viên , khuyến khích các em luôn có ý thức phấn đấu cao hơn nữa trong học tập cho dù ở hoàn cảnh nào.
 Giáo viên kể cho học sinh nghe một số câu chuyện mang tính giáo dục về tấm gương người tốt- việc tốt ; cho học sinh quan sát tranh ảnh minh họa trao quà tặng của nhà trường đến các em đạt thành tích cao trong học tập; tìm hiểu về một số tổ chức hỗ trợ cho học sinh , sinh viên nghèo; tìm hiểu về cuộc thi đường lên đỉnh Ôlimpia dành cho học sinh... 
? Khi đến thăm Văn Miếu , có bạn học sinh leo trèo, nô nghịch , thậm chí là ngồi cả lên bia đá, xả rác bừa bãi, trước những hành động ấy em sẽ làm gì? 
 Với câu hỏi này, giáo viên để học sinh tự do thảo luận các em đưa ra ý kiến của mình trước những hành động đó. Cuối cùng giáo viên chốt lại ý kiến và khẳng định mang tính giáo dục đối với các em : Trước mỗi một khu di tích lịch sử , các em cần có thái độ trang nghiêm , tôn kính , không nên làm những điều không được phép làm , chúng ta phải chung tay cùng nhau gìn giữ những di tích lịch sử ấy bằng những hành động đơn giản như: Giữ gìn vệ sinh chung, không xả rác bừa bãi, có thái độ đúng mực, không nói to, nô nghịch ...
Qua lời giải thích của giáo viên phần nào sẽ giúp cho các em có thái độ đúng mực và suy nghĩ đúng đắn hơn trước những hành động của mình.
 + Khi dạy phần nghệ thuật truyền thống thời Lê sơ, giáo viên nêu vấn đề: 
 ? Bạn em lần đầu tiên đến thăm quê hương em, em hãy giới thiệu với bạn về quê hương mình? 
 Sau khi học sinh giới thiệu bằng lời, giáo viên sử dụng kiến thức kiên môn để giúp các em hiểu sâu sắc hơn về quê hương mình qua các ý :
 Quê hương em có những phong cảnh gì? 
 Làng nghề truyền thống của quê hương em là gì? 
 Hiện nay làng nghề ấy còn tồn tại hay không?
 Em đã làm gì để phát huy làng nghề ấy? 
 Sau khi học sinh giới thiệu một số nét về quê hương với người bạn, giáo viên giúp học sinh khắc sâu hơn về nét văn hóa cổ truyền của địa phương như: 
 Trong các lễ hội Côn Sơn- Kiếp Bạc, Lễ Hội Đền Tranh.- Ninh Giang, người ta thường biểu diễn các làn điệu chèo. Mà điều đặc biệt là những người biểu diễn các làn điệu chèo ấy thường là những người nông dân , sáng vác cuốc ra đồng, tối họ lại quây quần bên nhau trên chiếc chiếu , trước sân đình cùng biểu diễn những làn điệu chèo mộc mạc , gần gũi như chính bản chất con người mộc mạc bình dị , chân quê của họ.
 Thôn Bồ Dương- xã Hồng Phong- Ninh Giang có đội múa rối nước thường thể hiện những tích truyện cổ, một phần giúp họ quên đi những vất vả thường ngày một phần là ý thức giữ gìn nét văn hóa truyền ông cha ta tạo dựng lên. Ngày nay khách xa gần và cả khách nước ngoài cũng đến đây thưởng thức nét văn hóa truyền thống này trên quê hương chúng ta, các em cần phải có ý thức gìn giữ, học hỏi những loại hình dân gian cổ truyền ấy...
 Làng nghề truyền thống ở trên địa bàn tỉnh Hải Dương chúng ta như : bánh gai Ninh Giang, bánh đậu xanh, nghề mộc ... Hải Dương chúng ta có làng gốm Chu Đậu xuất hiện từ TK XIV, cực thịnh vào TK XV, XVI, tàn lụi vào TK XVII... sang đến TK XIX gốm Chu Đậu bắt đầu có tiếng vang trên thị trường trong và ngoài nước. Dân gian ta vẫn truyền tụng câu nói:
 “ Có gốm Chu Đậu trong nhà 
 Như là được thấy ông bà tổ tiên”
 Bởi lẽ gốm Chu Đậu có đủ các tiêu chuẩn ; Trong như ngọc, trắng như ngà, sáng như gương, kêu như chuông, mỏng như giấy .
Những người đi thưởng lãm , đặc biệt là du khách nước ngoài không khỏi trầm trồ trước sự khéo léo của các nghệ nhân, họ như thu gọn cả thế giới thiên nhiên rộng lớn vào sản phẩm của mình.
 Giáo viên sử dụng kiến thức liên môn giáo dục công dân để nhắc nhở học sinh phải biết trân trọng, gìn giữ nét văn hóa truyền thống được lưu giữ từ xưa cho đến ngày nay, các em phải học hỏi góp phần lưu giữ và phát triển hơn nét văn hóa truyền thống vô cùng quý báu ấy.
 * Tích hợp môn Mĩ thuật.
 + Khi dạy phần nghệ thuật kiến trúc thời Lê s, giáo viên nêu vấn đề: 
 ? Nhận xét về nghệ thuật kiến trúc, điêu khắc thời Lê sơ.
Sau khi học sinh trả lời , giáo viên sử dụng kiến thức môn mĩ thuật miêu tả thêm cho học sinh nắm được các công trình được xây dựng theo hình thức sau: 
 Bia Vĩnh Lăng ( viết về vua Lê Thái Tổ ) cao 2m79, rộng 1m92, dựng trên một con rùa đá dài 3m46, rộng 1m94.
 Bia đá hình chữ nhật, trán cong hình bán nguyệt, chính giữa có biểu tượng trời/đất (hình vuông, trong tròn), ở chính giữakhắc nổi hình rồng cuộn, uốn khúc quanmặt Trờih  với ý nghĩa thiên tử (con trời) là do sự giao hòa của trời đất tạo nên. Hai bên là hình rồng chầu với thân dài uốn khúc cùng văn mây nước. Diềm bia được trang trí (từ trên xuống), 9 hình rồng trang trí tinh xảo bố cục trong 1/2 lá đề, đan xen hoa cúc dây mang phong cách nghệ thuật thời Lý - Trần. Theo nghiên cứu, bên cạnh hình ảnh con rồng truyền thống, thì hình rồng ở giữa trán bia Vĩnh Lăng lại mang ảnh hưởng của rồng phương bắc(phong cách rồng yên ngựa ảnh hưởng từ thời Minh) rất rõ nét: mắt nhìn thẳng với vẻ dữ tợn, thân mình vặn khúc, mang một dáng đe dọa. Được bố cục gọn gàng trong một bố cục hình tròn, hình tròn đấy lại nằm gọn trong một hình vuông.
 Văn bia viết trên một mặt, trán bia viết chữ kiểu triện, bài văn trên thân bia gồm 25 cột chữ viết chân. Cũng theo lệ thường, văn bia có lối viết sang cột giữa chừng và viết "đài lên" một hàng các chữ như "Thái, Đế, Tằng, Hoàng, Sắc" để tỏ ý kính trọng nhà vua và vương quyền. Căn cứ nội dung khắc trên bia thì tác giả văn bia là Nguyễn Trãi, soạn thảo vào niên hiệuThuận Thiên thứ 6 (1433) ngay sau khi vua Lê Thái tổ băng hà và được táng ở Vĩnh Lăng. Nội dung bia ngắn gọn, súc tích, thuật lại thân thế sự nghiệp của vua Lê Thái tổ, quá trình khởi nghĩa Lam Sơn cho đến khi đánh tan quân Minh, xây dựng lại quốc gia Đại Việt.
 Công trình Lam Kinh được xây dựng từ năm 1433 sau khi Lê Thái Tổ qua đời , xây dựng trên một khu đất hình chữ nhật dài 314m, rộng 254m, có tường thành bao bọc dày 1m.
 Năm 1433, sau khi vua Lê Thái Tổ mất được đem về an táng ở Lam Kinh các điện miếu cũng bắt đầu được xây dựng.
 Sách Đại Việt sử ký toàn thư ghi rõ: Lam Kinh được xây dựng vào năm 1433, vua sai Hữu Bộc xạ Lê Nhữ Lãm đến Lam Kinh dựng miếu cung từ Thái mẫu, cùng năm đó điện Lam Kinh bị cháy.
 Năm 1448, vua Lê Nhân Tông xuống chiếu cho Thái uý Lê Khả và Cục bách tác làm lại điện miếu Lam Kinh. Lam Kinh được tiếp tục xây dựng chưa đầy một năm, đến tháng 2 năm 1449 công việc xây dựng hoàn thành.
 Năm 1456, trong dịp hành lễ ở Lam Kinh vua Lê Nhân Tông đã đặt tên cho 3 toà của Chính điện là Quang Đức, Sùng Hiếu, Diễn Khánh.
  Quy mô công trình kiến trúc Lam Kinh được ghi trong Lịch triều hiến chương loại chí của Phan Huy Chú như sau:
          "Điện Lam Kinh đằng sau gối vào núi, trước mặt trông ra sông, bốn bên non xanh nước biết, rừng rậm um tùm. Vĩnh Lăng của Lê Thái Tổ, Thiệu Lăng của Lê Thái Tông và các lăng của vua nhà Lê đều ở đây cả. Lăng nào cũng có bia. Sau điện lấy Tây hồ làm não, giống như hồ Kim Ngưu. Hồ rất rộng lớn, nước các ngả đều chảy cả vào đó. Có con sông phát nguyên từ hồ ấy, chạy vòng trước mặt, lòng sông có những viên đá nhỏ, tròn và nhẵn trông rất thích mắt nhưng không ai dám lấy trộm. lại có lạch nước nhỏ, chảy từ bên tay phải qua trước điện, ôm vòng lại như cánh cung. Trên lạch có cầu giống như Bạch Kiều ở giảng đình điện Vạn Thọ Đông Kinh, đi qua cầu mới tới điện. Nền điện rất cao, hai bên mở rộng, dưới chân điện có làn nước phẳng, giống như trước điện nhà vua coi chầu. Ngoài cửa Nghi Môn có hai con chó ngao bằng đá, tục truyền là rất thiêng. Điện làm ba ngôi liền nhau, kiểu chữ Công, mẫu mực theo đúng kiểu các miếu ở kinh sư. Theo từng bậc mà lên, rồi từ đó trông xuống thì thấy núi khe hai bên Tả, Hữu, cái nọ, cái kia vòng quanh thật là một chỗ để xây dựng cơ nghiệp".
 Tuy nhiên, các công trình kiến trúc như xưa đến nay không còn nhiều, nhưng với ý nghĩa giá trị to lớn về mặt lịch sử, văn hoá, tâm linh với lòng thành kính tôn vinh các vua triều Hậu Lê đã có công lao to lớn với đất nước. Năm 1962, di tích lịch sử Lam Kinh được xếp hạng cấp quốc gia, đến 1994 được Chính phủ phê duyệt dự án trùng tu tôn tạo. Từ đó đến nay nhiều hạng mục công trình khu di tích đã được phục hồi tôn tạo, tránh được sự hoang phế, bảo vệ được nhiều di tích di vật cổ thời Lê. 
 Quần thể di tích Lam Kinh với tượng voi chầu bằng đá, một số con vật bằng đá, bia Vĩnh Lăng ... đều được thiết kế bởi những khối đá lớn , đồ sộ qua bàn tay điêu luyện của các nghệ nhân đã trở thành những con vật có hồn mang vẻ uy nghi nơi cung điện , lăng tẩm. 
? Quan sát bia Vĩnh Lăng, quần thể di tích Lam Kinh và cho biết đặc điểm nổi bật của các công trình kiến trúc thời Lê sơ (qua mái, ngói của các công trình) 
 Giáo viên cung cấp thêm thông tin: Kiến trúc cổ phản ánh rõ nét đời sống vật chất tinh thần của người Việt cổ như mái cong hình mui thuyền , đây là phương tiện đi lại chủ yếu của cư dân vùng sông nước . Mái lợp ngói vảy rồng gắn liền với tín ngưỡng dân gian thờ cúng các con vật linh thiêng đặc biệt là con Rồng của dân tộc ta 
 Vậy có thể khẳng định nghệ thuật Nghệ thuật kiến trúc, điêu khắc thời Lê sơ đặc sắc mang phong cách đồ sộ, kĩ thuật điêu luyện và đây cũng là bước phát triển toàn mĩ của nghệ thuật truyền thống. 
 + Khi dạy phần thương nghiệp thời Lê sơ, giáo viên nêu vấn đề: 
? Liên hệ với ngày nay và cho biết việc trao đổi buôn bán của nước ta với Trung Quốc diễn ra như thế nào ? 
 Sau khi học sinh trả lời , giáo viên phân tích thêm để học sinh nhận thức được tình hình thương nghiệp giữa 2 nước hiện nay: 
 Vân Đồn là nơi buôn bán tấp nập sầm uất có vị trí tự nhiên rất thuận lợi cho thuyền bè qua lại và trú đỗ , lại nằm trên trục hàng hải từ Trung Quốc xuống các nước Đông Nam Á .
 Do nhu cầu trao đổi rất lớn của nhân dân 2 nước nên hoạt động buôn bán diễn ra tấp nập ở các cửa khẩu thuộc vùng biên giới 2 nước Việt – Trung tạo nên mối quan hệ bang giao hòa hảo giữa 2 nước .
? Gần đây Trung Quốc đã có hành động gì ảnh hưởng đến mối quan hệ giữa hai nước? Trước hành động đó chúng ta phải làm gì? 
Ngày 2 tháng 5 năm 2014, giàn khoan HD 981 được Trung Quốc đưa đến tọa độ 15°29′58″B 111°12′1″Đ, cách đảo Tri Tôn (Trung Quốc gọi là đảo Trung Kiến, thuộc quần đảo Hoàng Sa và đang là đối tượng tranh chấp chủ quyền giữa Việt Nam và Trung Quốc) 17 hải lý (khoảng 30 km) về phía nam, cách đảo Hải Nam 180 hải lý về phía nam, cách đảo Lý Sơn (tỉnh Quảng Ngãi, Việt Nam) kh

File đính kèm:

  • docsang_kien_kinh_nghiem_tich_hop_lien_mon_trong_day_hoc_lich_s.doc