Sáng kiến kinh nghiệm Một số hướng khai thác biện pháp nghệ thuật trong tác phẩm truyện hiện đại Việt Nam lớp 9
1. Cơ sở lí luận
Đến với văn chương, con người cảm nhận và ý thức được cái đẹp, sự hài hoà, sự sống, tiếp cận và tự nâng mình lên với những tư tưởng và tình cảm cao đẹp, sâu sắc và tinh tế, được bồi dưỡng về ngôn ngữ, thứ ngôn ngữ phong phú, sinh động, giàu sức biểu cảm nhất của dân tộc. Đối với cộng đồng cư dân văn hoá nào cũng vậy, văn chương có một ý nghĩa cực kì to lớn là vì thế. Đối với nước ta "một nước thơ" như Ngô Thì Nhậm từng khẳng định thì chân lý đó càng hiển nhiên.
Rõ ràng, văn chương, mà trước hết là các nhà văn, là phần có giá trị bậc nhất trong di sản tinh thần của dân tộc ta. Người Việt không chỉ hôm qua và cả ngày nay nữa, đã gửi vào văn chương cả kinh nghiệm sống, tình yêu, khát vọng và cả đạo đức, triết học, tín ngưỡng của mình. Văn chương luôn trẻ trung, mới mẻ. Ở các nhà văn trẻ niềm khao khát đó như được nhân đôi. Sáng tạo văn chương là một lựa chọn tự nguyện đầy hứng thú, say mê nhưng cũng đầy cung phu, lao tâm khổ tứ, nghề "phu chữ" - theo cách nói của nhà văn Lê Đạt. Văn chương đâu chỉ có "chữ nghĩa", lo dùng "chữ" đã khó, lo "chữ nghĩa" càng khó hơn. Hay nói như Nam Cao: "Văn chương chỉ dung nạp những người biết đào sâu, biết tìm tòi, khơi những nguồn chưa ai khơi và sáng tạo những cái gì chưa ai có" và Thạch Lam một lần đã quả quyết: "Chỉ những nhà văn không chạy theo thời, không nghe theo tiếng gọi của sự háo hức, hám danh, sự chiều lòng công chúng, mà biết đi sâu vào tâm hồn mình, phát hiện những tính tình, cảm giác thành thực, tức là tìm thấy tâm hồn mọi người qua tâm hồn chính mình, mới có thể tạo được những giá trị bền vững, mới có thể đi tới chỗ bất tử mà không tự biết"
Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Một số hướng khai thác biện pháp nghệ thuật trong tác phẩm truyện hiện đại Việt Nam lớp 9
PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO NINH GIANG TRƯỜNG THCS VĨNH HÒA, THCS HIỆP LỰC, THCS THỊ TRẤN NINH GIANG. CHUYÊN ĐỀ NGỮ VĂN MỘT SỐ HƯỚNG KHAI THÁC BIỆN PHÁP NGHỆ THUẬT TRONG TÁC PHẨM TRUYỆN HIỆN ĐẠI VIỆT NAM LỚP 9 Nhóm tác giả : Ngô Hồng Loan Ngô Thị Ngọc Quỳnh Đào Thị Minh Hạnh Kim Thị Hương Năm học 2014 - 2015 Phần I. Đặt vấn đề: 1. Cơ sở lí luận Đến với văn chương, con người cảm nhận và ý thức được cái đẹp, sự hài hoà, sự sống, tiếp cận và tự nâng mình lên với những tư tưởng và tình cảm cao đẹp, sâu sắc và tinh tế, được bồi dưỡng về ngôn ngữ, thứ ngôn ngữ phong phú, sinh động, giàu sức biểu cảm nhất của dân tộc. Đối với cộng đồng cư dân văn hoá nào cũng vậy, văn chương có một ý nghĩa cực kì to lớn là vì thế. Đối với nước ta "một nước thơ" như Ngô Thì Nhậm từng khẳng định thì chân lý đó càng hiển nhiên. Rõ ràng, văn chương, mà trước hết là các nhà văn, là phần có giá trị bậc nhất trong di sản tinh thần của dân tộc ta. Người Việt không chỉ hôm qua và cả ngày nay nữa, đã gửi vào văn chương cả kinh nghiệm sống, tình yêu, khát vọng và cả đạo đức, triết học, tín ngưỡng của mình. Văn chương luôn trẻ trung, mới mẻ. Ở các nhà văn trẻ niềm khao khát đó như được nhân đôi. Sáng tạo văn chương là một lựa chọn tự nguyện đầy hứng thú, say mê nhưng cũng đầy cung phu, lao tâm khổ tứ, nghề "phu chữ" - theo cách nói của nhà văn Lê Đạt. Văn chương đâu chỉ có "chữ nghĩa", lo dùng "chữ" đã khó, lo "chữ nghĩa" càng khó hơn. Hay nói như Nam Cao: "Văn chương chỉ dung nạp những người biết đào sâu, biết tìm tòi, khơi những nguồn chưa ai khơi và sáng tạo những cái gì chưa ai có" và Thạch Lam một lần đã quả quyết: "Chỉ những nhà văn không chạy theo thời, không nghe theo tiếng gọi của sự háo hức, hám danh, sự chiều lòng công chúng, mà biết đi sâu vào tâm hồn mình, phát hiện những tính tình, cảm giác thành thực, tức là tìm thấy tâm hồn mọi người qua tâm hồn chính mình, mới có thể tạo được những giá trị bền vững, mới có thể đi tới chỗ bất tử mà không tự biết" Môn ngữ văn trong trường trung học đã khẳng định được vai trò to lớn trong việc hình thành, phát triển, định hướng nhân cách cho học sinh. Học văn là học làm người, học các phép tắc ứng xử trong cuộc sống. Mặt khác, đây là một môn học nghệ thuật, kích thích trí tưởng tượng bay bổng, sức sáng tạo của người học. Nên để dạy và học tốt môn ngữ văn, người dạy và người học phải không ngừng trau dồi vốn kiến thức ngôn ngữ, từ vựng, các kiến thức liên quan về các hình thức nghệ thuật, các nhà văn, nhà thơ, các câu ca dao tục ngữ, lấy đó làm vốn sống, vốn kinh nghiệm cho bản thân. Khi đánh giá một tác phẩm văn học, yếu tố được coi là cơ bản và then chốt chính là giá trị nội dung và nghệ thuật của tác phẩm. Chúng có mối quan hệ hữu cơ, thống nhất hài hoà giữa các hình thức nghệ thuật và nội dung tư tưởng. Nói như Bªlinxki nhà phê bình lí luận VH Nga viết rằng: “Trong tác phẩm nghệ thuật, nội dung và các hình thức nghệ thuật phải luôn hòa hợp với nhau một cách hữu cơ như là tâm hồn và thể xác. Nếu hủy diệt hình thức nghệ thuật thì cũng là hủy diệt nội dung tư tưởng của tác phẩm và ngược lại cũng vậy”. Và để khẳng định mối quan hệ mật thiết đó thì Haghen cũng đã từng viết: “Tác phẩm văn học mà thiếu đi hình thức nghệ thuật thích đáng thì không phải là một tác phẩm văn học thực sự. Và đối với người nghệ sĩ khi đó sẽ là một biểu hiện tồi nếu như người ta nói rằng về nội dung thì tác phẩm anh tốt, nhưng nó thiếu đi các hình thức nghệ thuật thích đáng. Chỉ có những tác phẩm văn học mà nội dung và hình thức thống nhất với nhau mới là những tác phẩm văn học đích thực”. Đôi khi trong môn Ngữ văn, nhất là với tác phẩm tự sự, người học chỉ chú trọng vào việc tìm hiểu về nội dung mà quên đi những hình thức nghệ thuật của tác phẩm thì lúc đó việc dạy và học chắc chắn sẽ không đạt hiệu quả cao. Nó trở nên khô khan, cứng nhắc, sống sượng. HS sẽ không hiểu sâu, hiểu hết được những giá trị tư tưởng mà tác giả muốn gửi gắm, truyền đạt đến, đôi khi còn dẫn tới cách hiểu sai, lệch lạc giá trị của tác phẩm. Các hình thức nghệ thuật là yếu tố không thể thiếu trong các tác phẩm văn học nói chung và trong thể loại truyện ngắn tự sự hiện đại VN nói riêng. Người học phải nắm bắt được toàn diện tác phẩm, có một cái nhìn bao quát về cả nội dung và nghệ thuật. Bút pháp trần thuật bao giờ cũng mang nhiều ẩn ý. Việc cần thiết là phải cho HS nắm được các biện pháp nghệ thuật trong một văn bản, xâu chuỗi, và thực hiện tích hợp trong cả 3 phân môn. 2. Cơ sở thực tiễn: Về phía HS: HS có nhiều hạn chế trong việc tiếp thu và cảm thụ tác phẩm tự sự. Một mặt do trình độ nhận thức của HS còn kém, tư duy sáng tạo chưa sâu. HS chưa nắm bắt được hết mối liên hệ giữa nội dung và hình thức của một tác phẩm. Hiện nay HS thường sử dụng sách tham khảo nhiều và các tài liệu do các NXB địa phương ấn hành, chất lượng kém, có nhiều ý kiến trái chiều khác nhau. HS bị lúng túng, thụ động, thiếu tự tin, thiếu sự tìm tòi, đánh giá, phân tích chi tiết. Không phát huy được tính tích cực, chủ động sáng tạo của HS. HS chưa xác định được kiến thức trọng tâm. Thực tế hiện nay HS bị lỗ hổng kiến thức từ các cấp lớp học, học trước quên sau. Cho nên HS rất khó tiếp thu được kiến thức của một VB khi chứa nhiều hình thức nghệ thuật. HS sẽ không nắm bắt được hết các giá trị của VB. Phân tích tác phẩm tự sự không bám sát vào hình thức nghệ thuật để chỉ ra cái hay cái đẹp của nội dung tác phẩm. Phần lớn HS chỉ biết diễn xuôi nội dung một cách cứng nhắc và gượng ép, vụng về, tách nội dung ra khỏi các hình thức tự sự, cá biệt có hiện tượng trong bài làm học sinh còn rơi vào tình trạng kể lại tác phẩm. Vd: Khi phân tích nhân vật ông Hai trong tác phẩm Làng – Kim Lân thì HS chưa nắm được nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật đặc sắc, thì không thể nào tìm hiểu được những chuyển biến trong đời sống tâm lí của ông Hai và người nông dân nói chung giai đoạn 1945. Nguyên nhân khách quan nữa là hiện nay do một số văn bản dài so với thời lượng từ 45 90 phút nghiên cứu trên lớp, HS rất khó có thể khai thác hết được toàn bộ các giá trị tác phẩm. Về phía GV: Tình hình thực tế hiện nay là còn nhiều GV trẻ, nên việc làm thế nào để truyền đạt hết nội dung kiến thức cả về nội dung và nghệ thuật của VB là tương đối khó khăn. Thao tác xử lí bài giảng còn hạn chế. Nhiều GV chỉ đi sâu khai thác nội dung, chưa chú trọng khai thác nghệ thuật VB. Không ít GV còn lúng túng khi đưa ra hệ thống câu hỏi khai thác nghệ thuật, khả năng kết hợp từ nghệ thuật để làm nổi bật nội dung còn yếu. Tích hợp kém, không để tích hợp học. Nhiều VB mới đưa vào cũng gây không ít khó khăn khi tìm hiểu và truyền thụ kiến thức. Kiến thức lí luận văn học còn yếu. Chính vì những lí do trên mà các tổ KHXH của trường THCS Thị Trấn, trường THCS Vĩnh Hòa và THCS Hiệp Lực chúng tôi đã chọn chuyên đề này để nghiên cứu thực hiện, hi vọng sẽ làm nâng cao chất lượng dạy và học, gây hứng thú với GV và HS. 3. Phương pháp nghiên cứu. Nghiên cứu tài liệu. Điều tra thực tế, Phiếu thăm dò. Dạy thực nghiệm. 4. Mục đích nghiên cứu - Giúp HS hiểu thêm về các biện pháp nghệ thuật trong văn bản tự sự hiện đại VN. - Biết cách phân tích và đưa ra tác dụng của các biện pháp nghệ thuật đó trong mối liên hệ với nội dung tác phẩm. - Biết vận dụng các hiểu biết để phân tích các TPTS nói chung và văn bản tự sự hiện đại VN nói riêng. GV có thể áp dụng vào các bài dạy, biết cách khai thác và truyền thụ tốt hơn tới HS giá trị của các hình thức nghệ thuật. 5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Giới hạn ở đối tượng HS khối 9 trường THCS . Phạm vi là các văn bản tự sự hiện đại VN sau CMT8 (trong 2 cuộc kháng chiến của dân tộc và giai đoạn sau 1975). + Gồm 5 tác phẩm: 1. Làng Kim Lân 1948 2. Lặng lẽ Sa Pa Nguyễn Thành Long 1970 3. Chiếc lược ngà - Nguyễn Quang Sáng 1966 4. Những ngôi sao xa xôi Lê Minh Khuê - 1971 5. Bến quê Nguyễn Minh Châu trong tập Bến quê 1985. - Bài dạy thực nghiệm: VB Chiếc lược ngà NV9( HKI) 6. Kết quả điều tra khảo sát học sinh trước khi thực nghiệm chuyên đề: Chúng tôi đã thảo luận và đi đến thống nhất xây dựng mẫu phiếu điều tra đánh giá thực trạng nhận thức của hs về các biện pháp nghệ thuật trong tác phẩm truyện VN khối lớp 8 như sau: - Về đối tượng điều tra khảo sát: 50 em hs lớp 9 trường THCS Vĩnh Hòa và 30 em hs lớp 9 trường THCS Hiệp Lực - Thời gian: 30 phút để trả lời cho 2 câu hỏi. - Nội dung: Câu 1: Kể tên một số các biện pháp nghệ thuật được sử dụng trong tác phẩm truyện VN khối lớp 8 mà em đã học (Tôi đi học, Trích đoạn Trong lòng mẹ, Trích đoạn Tức nước vỡ bờ và Lão Hạc.) Kết quả: Trong đó. + 30/80 em đề cập đến nghệ thuật xây dựng nhân vật. + 26/80 em đề cập đến nghệ thuật xây dựng tình huống. + 12/80 em em đề cập đến nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ hội thoại trong kể chuyện. + Cá biệt có 3 em không nói đúng tên các biện pháp nghệ thuật Còn đa số là các em đề cập đến sự kết hợp giữa tự sự với miêu tả và biểu cảm. Câu 2: Đâu là tình huống đặc sắc của đoạn trích Tức nước vỡ bờ? Tình huống đó có vai trò gì trong việc thể hiện tư tưởng nội dung của đoạn trích? Với câu hỏi này 63/80 học sinh cho rằng tình huống được coi là đặc sắc là đoạn chị Dậu kháng cự lại Cai lệ và người nhà lí trưởng. Như vậy các em chỉ nhận ra tình huống có vấn đề, tình huống cao trào của truyện... mà chưa nhận ra được tình huống truyện lớn nhất chính là chị Dậu phải bảo vệ chồng trong hoàn cảnh khó khăn, éo le và hết sức ngặt nghèo. Còn lại đa số hs không chỉ ra được vai trò của tình huống trong việc thể hiện tư tưởng của đoạn trích. Như vậy có thể khẳng định: + Kiến thức lí luận văn học của hs còn nhiều hạn chế. + Việc nhận thức về biện pháp nghệ thuật văn học còn mơ hồ, đôi khi còn nhầm lẫn với biện pháp nghệ thuật tu từ. + Đặc biệt là chưa chỉ ra được vai trò, giá trị của các biện pháp nghệ thuật trong một tác phẩm cụ thể, một hoàn cảnh cụ thể.. Phần II. Giải quyết vấn đề 1. Một số khái niệm và kiến thức liên quan. Khi tìm hiểu VBTS thì bắt buộc người GV cần nắm vững những khái niệm liên quan để khai thác tốt nhất VB. Tác phẩm tự sự: khác với tác phẩm trữ tình, hiện thực được tái hiện qua những cảm xúc, tâm trạng, ý nghĩ con người, được thể hiện qua những lời lẽ, bộc bạch, thổ lộ. Nên tác phẩm tự sự phản ánh đời sống trong tính khách quan của nó. Qua con người, hành vi, sự kiện được kể lại bởi một người kể chuyện nào đó. Đây là yếu tố đặc trưng để nhận diện TPTS. (hiểu rộng ra: TPTS gồm anh hùng ca, sử thi, truyện thơ, trường ca, thơ trường thiên, truyện ngụ ngôn). Truyện ngắn tự sự: (chúng tôi nghiên cứu trong phạm vi nhỏ) là hình thức ngắn của tự sự, khuôn khổ ngắn, tái hiện lại cuộc sống đương thời. Nội dung của truyện ngắn có thể rất khác nhau: đời tư, thế sự, hay sử thi. Truyện ngắn có thể kể về cả một cuộc đời, một đoạn đời hay một chốc lát trong cuộc sống nhân vật. Cái chính của truyện ngắn không phải là hệ thống sự kiện mà ở cái nhìn tự sự đối với cuộc đời. Truyện ngắn nói chung không phải là vì truyện của nó ngắn mà vì cách nắm bắt cuộc sống của thể loại: ít nhân vật, ít sự kiện phức tạp. Ở truyện ngắn, bút pháp trần thuật thường là chấm phá. Kết cấu thường là sự liên tưởng, tương phản. ý nghĩa quan trọng nhất của truyện ngắn là chi tiết có dung lượng lớn và mang nhiều ẩn ý. - Nhân vật: Nhân vật là những con người có hành động, ngôn ngữ và tính cách trong truyện. Nhân vật là trung tâm của truyện, thể hiện các quan điểm của tác giả. Nhân vật trong truyện ngắn thường là một mảng nhỏ của thế giới. Tồn tại các kiểu nhân vật như: + Nhân vật chức năng (hay mặt nạ), không có đời sống nội tâm, phẩm chất và đặc điểm cố định đến cuối truyện. + Nhân vật loại hình: thể hiện tập trung các phẩm chất xã hội, đạo đức của một loại người nhất định của xã hội (Anh thanh niên Lặng lẽ Sa Pa). + Nhân vật tính cách: là nhân vật có diễn biến nội tâm phức tạp, không đồng nhất, thường có một quá trình phát triển với nhiều cung bậc, tâm trạng khác nhau. (Thu Chiếc lược ngà, ông Hai Làng, Phương Định Những ngôi sao xa xôi) có diễn biến phức tạp, đa dạng, nhiều chiều. + Nhân vật tư tưởng, nhận thức: Nhân vật nhận thức là kiểu nhân vật chủ đạo trong truyện ngắn sau 1975. Nhân vật này cũng thể hiện một cá tính, một nhân cách nhưng cái chính là một hiện tượng tư tưởng, một thức diễn ra trong đời sống. Xét từ góc độ trần thuật: nhân vật là một chất liệu có tính bản thể của văn bản tự sự. Chất liệu đó có thể được soi chiếu từ nhiều góc độ khác nhau (như một thực thể sống, có số phận riêng tư và đời sống tâm lý cá biệt; như một hình chiếu thế giới tư tưởng của tác giả hoặc của đời sống xã hội) . Song dù ở góc độ nào, đó vẫn là một hệ thống có quan hệ nội tại và thống nhất sâu sắc với cấu trúc tự sự của tác phẩm. Từ nhận thức thế giới bên ngoài đến nhận thức thế giới tâm hồn mình là bước phát triển mới của tư duy nghệ thuật về con người, gắn với sự thức tỉnh ngày càng cao của nhà văn về giá trị con người cá nhân. Kiểu nhân vật này thường gắn với chủ đề tự thú hay sám hối. Như Bến quê được tạo nên bởi sự kết hợp hài hoà của nghệ thuật xây dựng hình ảnh có ý nghĩa biểu tượng và khả năng miêu tả tâm lí tinh tế. Qua tác phẩm người đọc cảm nhận được những suy ngẫm, trải nghiệm sâu sắc của nhà văn về con người và cuộc đời. Đọc Bến quê ta thấy một cốt truyện đơn giản nhưng tính triết lí sâu sắc, có ý nghĩa tổng kết về cuộc đời một con người. Tác giả đã đặt nhân vật của mình vào những éo le, đầy nghịch lí (cả cuộc đời Nhĩ đã từng đi không sót một xó xỉnh ...rồi bãi bồi bên kia sông Hồng - thật gần gũi nhưng chẳng bao giờ anh đặt chân tới... rồi đứa con trai anh lỡ chuyến đò ngang...rồi đến lúc cuối đời anh mới nhận ra sự tần tảo, đức hi sinh của vợ... Phải chăng đặt nhân vật Nhĩ vào cả một chuỗi những nghịch lí như thế nhà văn muốn hướng người đọc vào nhận thức của cuộc đời: Cuộc sống và số phận con người chứa đầy những điều bất thường "cuộc đời vốn đa sự, con người vốn đa đoan" Để nhân vật “thức tỉnh” nhà văn đã chú ý nhiều đến việc xây dựng tình huống, miêu tả nội tâm nhân vật. Khắc họa nhân vật trong trạng thái đột biến của nhận thức, Nhà văn đã mở rộng biên độ khám phá con người ở chiều sâu cảm thức. Mỗi con người có một số phận riêng, một tính cách riêng, một cuộc đời riêng và chịu tác động khác nhau của các yếu tố trong cuộc sống, nhưng tự ý thức luôn là điều cần thiết cho tất cả mọi người để tránh sai lầm và để cuộc sống tốt đẹp hơn. + Nhân vật cô đơn: Sau năm 1975 với sự đổi mới trong tư duy nghệ thuật của nhà văn về con người nhu cầu tự ý thức trước sự đổi thay của đời sống, các nhà văn đã quan tâm đến nhu cầu tự ý thức, đến sự thức tỉnh của cá nhân, đến trạng thái tâm lí cô đơn của con người. “Cô đơn trở thành chủ đề thu hút sự chú ý của nhiều cây bút văn xuôi, bởi bản chất của tâm trạng cô đơn là khao khát cái đẹp, cái thiên lương của con người." Cô đơn là vấn đề của mỗi bản thể, cá nhân nhưng nó không hẳn là vấn đề riêng tư, nhỏ bé. Có thể nói từng cuộc đời riêng của mỗi cá nhân gộp lại thành vấn đề của cộng đồng, của xã hội, một khía cạnh của chủ nghĩa nhân đạo hôm nay. + Nhân vật bi kịch: “Nếu muốn dùng sức mạnh của tay ta lay động thân cây này, ta sẽ không thể làm nổi. Nhưng ngọn gió mà ta không nhìn thấy sẽ dồi dập, bẻ cong thân cây theo ý muốn. Cũng thế chúng ta bị uốn cong và dồi dập bởi những bàn tay vô hình.” (Riezsche) Bi kịch là cái hầu như không xuất hiện trong văn học Việt Nam 1945 – 1975, thậm chí nó còn là điều cấm kị. Luồng gió đổi mới đã đưa văn học về với quỹ đạo bình thường của nó. Cùng với sự đổi mới mạnh mẽ quan niệm nghệ thuật về con người và hiện thực, các nhà văn không ngần ngại đi sâu vào những sắc thái muôn vẻ của nỗi buồn nhân thế, thể hiện cảm nhận sâu sắc về những mất mát của con người. - Cốt truyện: Là hình thức tổ chức sơ đẳng nhất của truyện. Bất cứ truyện lớn, truyện nhỏ cốt truyện nói chung cũng bao gồm các thành phần chính là thắt nút – phát triển – cao trào – mở nút. Có cốt truyện thì đơn giản( như truyện Lặng lẽ Sa Pa cốt truyện chỉ xoay quanh một tình huống gặp gỡ bất ngờ giữa ông họa sĩ già, cô kĩ sư trẻ với anh thanh niên làm công tác ở trạm khí tượng trên đỉnh Yên Sơn nhân vật chính chỉ hiện ra trong chốc lát nhưng để lại cho các nhân vật khác nhiều tình cảm tốt đẹp), có cốt truyện thì phức tạp. Mục đích của cốt truyện là giúp người đọc nhận ra một điều gì đó và gửi gắm tư tưởng của mình vào trong đó. - Kết cấu: Đây là một phương tiện cơ bản của sáng tác nghệ thuật. Trên một phương diện lớn có thể nói sáng tác tức là kết cấu, đó là việc xây dựng tác phẩm, xây dựng cốt truyện, xây dựng tính cách. Là toàn bộ tổ chức tác phẩm phục tùng đặc trưng nghệ thuật và nhiệm vụ cơ thể mà nhà văn tự đặt ra cho mình. Kết cấu tác phẩm không bao giờ tách rời nội dung cuộc sống và nội dung tư tưởng trong tác phẩm văn học. - Trần thuật: là yếu tố quan trọng trong văn bản tự sự. Trần thuật là sự trình bày liên tục bằng lời văn các chi tiết, sự kiện, tình tiết, quan hệ, biến đổi về xung đột và nhân vật một cách cụ thể, hấp dẫn, theo một cách nhìn, cách cảm nhất định. Đây là sự thể hiện của hình tượng văn học, truyền đạt nó tới người thưởng thức. 2. Đặc điểm của văn bản tự sự hiện đại VN. Nằm trong chương trình ngữ văn lớp 9, chia làm 5 tác phẩm (như chúng tôi đã nói ở trên) sáng tác theo 3 giai đoạn chính: + Kháng chiến chống Pháp.( Làng ) + Kháng chiến chống Mĩ (Chiếc lược ngà, Lặng lẽ SaPa, Những ngôi sao xa xôi). + Sau 1975 giai đoạn đất nước thống nhất. (Bến quê). Về đề tài và nội dung các tác phẩm này rất đa dạng, mở ra những bức tranh phong phú về đời sống và con người ở rất nhiều vùng, miền đất nước, trong nhiều hoàn cảnh, với những tính cách và số phận khác nhau. Qua các tác phẩm này đã hình thành ở HS những hiểu biết sơ lược bước đầu về thành tựu và đặc điểm của văn xuôi hiện đại VN sau CMT81945 như các nội dung: + Hình ảnh con người VN thuộc nhiều thế hệ trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mĩ.( ông Hai có tình yêu làng đặt trong tình cảm yêu nước và kháng chiến. Bé Thu có tính cách cứng cỏi, tình cảm nồng nàn, thắm thiết với cha, Ông Sáu, hay ba cô TNXP có tinh thần dũng cảm không sợ hi sinh, tình cảm trong sáng, hồn nhiên, lạc quan trong hoàn cảnh chiến tranh ác liệt). + Tình yêu quê hương đất nước, trân trọng vẻ đẹp bình dị của quê hương. (nhân vật Nhĩ Bến quê cảm nhận vẻ đẹp của quê hương mình lúc nằm trên giường bệnh) + Vẻ đẹp của con người lao động bình dị, chân chính ( anh thanh niên với công việc thầm lặng, tính cách cao đẹp, cống hiến sức mình cho đất nước). 3. Các biện pháp nghệ thuật thường được sử dụng và cách khai thác tìm hiểu. Các tác giả tích cực tìm tòi các đề tài và đưa vào đó những hình thức nghệ thuật mới lạ, phức tạp, đòi hỏi GV và HS phải nắm chắc kiến thức và cách triển khai, phân tích một tác phẩm như: cốt truyện, người kể chuyện, nhân vật, ngôn ngữ, các lời đối thoại, độc thoại và cả độc thoại nội tâm trong VBTS, nghệ thuật miêu tả tâm lí và ngôn ngữ nhân vật, hệ thống ngôn ngữ, sử dụng bút pháp tái hiện hiện thực nghiêm ngặt, hay cách tạo tình huống truyện, hay cách sử dụng ngôn ngữ địa phương. 3.1 Phương thức trần thuật (Người kể chuyện trong văn bản tự sự hiện đại VN) a. Quan điểm về phương thức trần thuật. Nói đến phương thức trần thuật hay là nó đến điểm nhìn trần thuật. Điểm nhìn trong văn bản bao giờ cũng là tâm điểm được nhiều nhà nghiên cứu trên thế giới quan tâm và bàn luận. Nhà nghiên cứu Trần Đình Sử trong Dẫn luận thi pháp học đã đưa ra một định nghĩa có thể coi là toàn diện về điểm nhìn trần thuật: “Nó không chỉ là điểm nhìn thuần túy quang học mà còn mang nội dung quan điểm, lập trường, tư tưởng, tâm lí của con người”. Có nghĩa là trần thuật được đặt ở vị trí nào thì đối với tác phẩm nghệ thuật cũng không thể thiếu vắng điểm nhìn ở vị trí ấy. Có rất nhiều điểm nhìn trần thuật: Điểm nhìn bên ngoài, điểm nhìn bên trong, điểm nhìn không gian, điểm nhìn di động, điểm nhìn thời gian, điểm nhìn tâm lí, điểm nhìn của nhân vật được kể. Theo M. Bakhtin, điểm nhìn còn mang nội dung tư tưởng, ý thức hệ nên có “điểm nhìn tư tưởng và ý thức hệ” để tuyên bố một chiều mà không cần phải giải thích. Khi khảo sát 5 truyện ngắn hiện đại VN trong chương trình ngữ văn 9, chúng tôi nhận thấy những câu chuyện kể thường có sự đan xen, nhập nhòa giữa chủ thể sáng tạo là tác giả với người trần thuật. Đó là cội nguồn của sự nhận thức, phán đoán, kiến giải chủ quan mà nhà văn hiện hình nó trên văn bản của mình. Người trần thuật trong truyện ngắn luôn truyền tải được đầy đủ và sắc nét những yêu thương, tâm tình, những khát khao về hạnh phúc gia đình, hoà bình, tình yêu quê hương đất nước... Người kể chuyện có thể xuất hiện dưới nhiều hình thức khác nhau, với những ngôi kể khác nhau, khi vô nhân xưng, khi nhập vào một nhân vật trong truyện, thông thường trong văn bản tự sự hiện đại VN người kể chuyện xuất hiện ở ngôi thứ nhất xưng “tôi” hoặc là ngôi thứ ba. Và khi trình bày miêu tả thì người kể chuyện thường gắn với điểm nhìn nào đó. Điểm nhìn là vị trí quan sát của người kể chuyện khi thuật lại truyện. Người ta thường dùng ba điểm nhìn trong văn bản tự sự hiện đại VN + Điểm nhìn bên trong (điểm nhìn thông qua đôi mắt của một nhân vật trong truyện), Theo lí thuyết tự sự học, người kể chuyện mang điểm nhìn bên trong khi anh ta/chị ta là nhân vật có mặt trực tiếp ngay trong câu chuyện. Điểm nhìn trần thuật bên trong luôn được biểu hiện bằng hình thức tự quan sát, tự thú nhận của nhân vật, hoặc bằng hình thức người trần thuật dựa vào cảm giác, tâm hồn nhạy cảm của nhân vật để biểu hiện thế giới nội tâm bên trong của nhân vật. Với dạng thức này thì người kể chuyện sẽ đảm nhiệm vai trò kể chuyện từ đầu đến cuối và có vai trò to lớn trong việc quyết định cấu trúc tác phẩm cũng như toàn quyền miêu tả nhân vật khác từ điểm nhìn của bản thân. Có nghĩa là, người kể chuyện đứng trong tầm sự kiện được kể, có tham gia phần nào vào hoạt động khi sự kiện xảy ra. Người kể chuyện ở đây cũng chỉ biết và chỉ kể được những thông tin tương đương với nhân vật trực tiếp tham gia trong tác phẩm. Về bản chất, điểm nhìn của nhân vật chính là điểm nhìn mà người kể chuyện lấy đôi mắt của nhân vật thay cho đôi mắt riêng của mình. Chúng ta khảo sát các truyện ngắn tiêu biểu: Chiếc lược ngà - Nguyễn Quang Sáng; Lặng lẽ Sa Pa của Nguyễn Thành Long để làm rõ điểm nhìn này. + Điểm nhìn bên ngoài: một người quan sát bên ngoài, khách quan, trung tính, không đi sâu vào tâm lí nhân vật. Điểm nhìn trần thuật bên ngoài (hay còn gọi là điểm nhìn trần thuật theo ngôi thứ ba - tác giả). Đây là điểm nhìn phổ biến trong văn học truyền thống với cái nhìn thuần túy khách quan, không thuộc về ai. Với điểm nhìn này, người kể chuyện thường giấu mặt (ẩn mình) để bao quát hết thảy câu chuyện rồi kể lại theo ý kiến riêng của mình. Người kể chuyện chỉ đứng im mà quan sát và sau đó làm nhiệm vụ ghi lại những lời nói và hành động của nhân vật giống như một nhà quay phim quay lại thước phim đó. Người trần thuật ở đây luôn giữ một khoảng cách xa với câu chuyện được kể và nói ít hơn tất cả nhân vật trong tác phẩm. Làng của nhà văn Kim Lân là một minh chứng. Cả hai điểm nhìn trên có mặt ưu điểm và cũng có mặt hạn chế. Bởi mỗi kiểu điểm nhìn thì lại thiên lệch về một lĩnh vực. Điểm nhìn trần thuật bên ngoài thì mặt mạnh của nó là ở cái nhìn khách quan còn điểm nhìn trần thuật bên trong lại mạnh ở cái nhìn chủ quan. Chính sự khéo léo khi sử dụng điểm nhìn nghệ thuật đã giúp truyện ngắn hiện đại VN trong chương trình Ngữ văn 9 đi vào lòng người đọc. Ngoài hình thức kể trên, còn thường xuất hiện hình thức kể chuyện theo ngôi thứ ba, qua đó người kể giấu mình nhưng có mặt ở khắp mọi nơi trong TP. Người kể chuyện này dường như biết hết mọi việc, mọi hành động, tâm tư, tình cảm, của các nhân vật. Người kể chuyện có vai trò dẫn dắt người đọc đi vào câu chuyện giới thiệu nhân vật và tình huống truyện, tả người và tả cảnh vật, đưa ra các nhận xét và đánh giá về điều được kể. Trong tác phẩm Lặng lẽ SaPa, người kể chuyện dường như biết hết mọi thay đổi tâm lí tình cảm của anh thanh niên, cô kĩ sư hay ông họa sĩ. GV có thể cho HS so sánh tác dụng và hạn chế của từng ngôi kể bằng việc đưa ra một số những câu hỏi so sánh ví dụ như: “Em hãy cho biết ngôi kể này có ưu điểm và hạn chế gì so với các ngôi kể khác trong việc thể hiện nội dung tác phẩm và tâm lí nhân vật?” hay “So sánh ngôi kể của Tp Lặng lẽ SaPa và ngôi kể trong TP Bến quê”, GV có thể cho HS thay ngôi kể cho một đoạn văn trong một TP, để làm rõ sự khác nhau trong cách miêu tả nhân vật và thấy được ưu và nhược điểm của từng loại. b. Cách khai thác “điểm nhìn” trong quá trình phân tích tác phẩm. Thực chất, nói về điểm nhìn hay phương thức trần thuật thì đó đều là những nội dung kiến thức khá rộng. Ở đây để phù hợp với nhận thức của học sinh chúng ta chỉ đề cập đến việc khai thác hai điểm nhìn: Điểm nhìn bên trong và điểm nhìn bên ngoài. * Thời điểm tìm hiểu khai thác: - Trong quá trình đọc hiểu. - Trong quá trình phân tích. - Khi tổng kết giá trị nghệ thuật, nội dung. - Khi liên hệ so sánh với các tác phẩm khác. * Mức độ khai thác: - Phát hiện, nhận biết. (quá trình đọc hiểu) - Hiểu (khi phân tích) - Đánh giá (khi liên hệ, so sánh hoặc tổng kết) Ví dụ: Khi đọc hiểu văn bản " Lặng lẽ Sa Pa" có thể hỏi học sinh phát hiện về ngôi kể. Trong phần tổng kết, hỏi học sinh về đặc điểm, tác dụng của ngôi kể: Học sinh sẽ thấy: truyện được kể ở ngôi thứ 3, nhưng gần như được trần thuật theo điểm nhìn của ông hoạ sĩ. Từ đó nhận thấy: có một mối liên hệ chặt chẽ giữa nhân vật nhà hoạ sĩ với nhà văn. Hoạ sĩ hay chính là người phát ngôn nghệ thuật của nhà văn Nguyễn Thành Long. Nhà văn đã mượn nhân vật để bày tỏ quan điểm của mình về nghệ thuật chân chính. Hay khi học sinh học xong hai tác phẩm: " Chiếc lược ngà" và " Những ngôi sao xa xôi" có thể cho các em so sánh về ngôi kể ở hai tác phẩm. Hai truyện ngắn đều có điểm nhìn trần thuật là ngôi 1, nhưng lựa chọn nhân vật trần thuật lại khác nhau. Một truyện chọn ngôi kể là nhân vật chính, một truyện lại chọn người kể chuyện ngôi 1 nhưng là nhân vật phụ. Từ đó, ta nhận thấy: việc lựa chọn điểm nhìn trần thuật đóng vai trò quan trọng trong việc thể hiện nội dung, tư tưởng của tác phẩm. 3.2. Nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật. a. Vai trò của nghệ thuật miêu tả diến biến tâm lý nhân vật. Đây là yếu tố rất quan trọng trong văn bản tự sự. HS có nắm chắc được sự thay đổi tâm lí nhân vật, nắm được những rung động tinh vi và sắc sảo thì mới hiểu hết về các phẩm chất tính cách của nhân vật. Tùy từng nhân vật khác nhau, từng tác phẩm khác nhau và tùy thuộc vào xu hướng miêu tả của tác giả mà khắc họa được sự thay đổi tâm lí của nhân vật. b. Cách khai thác nghệ thuật miêu tả diến biến tâm lý nhân vật. Người GV phải làm cho HS thấy được sự miêu tả tâm lí phức tạp của tác giả, bằng cách sử dụng một hệ thống câu hỏi tích hợp, gợi mở, liên tưởng, làm cho HS nhận thấy nghệ thuật đặc sắc và mối liên hệ với nội dung tác phẩm. Thường khai thác như sau: - Khai thác khi phân tích nhân vật. Qua các chi tiết: + Ngoại hình, hành động, ngôn ngữ, dáng vẻ, cử chỉ... + Qua nghệ thuật khắc hoạ thiên nhiên, không gian, thời gian... - Khai thác khi sâu chuỗi quá trình diến biến tâm lý từ đầu tới cuối. Phương pháp khai thác này thường làm khi việc phân tích nhân vật đã gần hoàn thiện. VD: Lê Minh Khuê cũng đã rất thành công khi miêu tả nhân vật Phương Định qua nhiều phương diện. Là một cô gái Hà Nội, hình thức khá, có bím tóc dày, cổ cao kiêu hãnh như một đài hoa loa kèn, Phương Định yêu thương những người đồng đội của mình, cô có một thế giới nội tâm khá phức tạp. Qua một lần phá bom, tâm lí của Phương Định hiện lên thật rõ nét. GV có thể cho HS sắp xếp sự diễn biến tâm lí của Phương Định theo như VB đã miêu tả. Câu hỏi tích hợp “Em còn bắt gặp biện pháp NT này ở những VB đã học nào”. Ví dụ khác: Để nhận xét về nghệ thuật miêu tả tâm lí và ngôn ngữ nhân vật ông Hai của Kim Lân thì trong khi phân tích diễn biến tâm lí nhân vật này, GV có thể đưa câu hỏi gợi ý cho HS nhận xét: “Tâm lí nhân vật được thể hiện qua những phương diện nào (hành động, ngôn ngữ độc thoại và đối thoại)? Nhận xét về quá trình diễn biến tâm lý nhân vật từ khi nghe tin làng theo giặc đến khi cái tin ấy được cải chính? Kim Lân đã đặt nhân vật ông Hai vào tình huống thử thách bên trong để bộc lộ chiều sâu tâm trạng. Tác giả đã miêu tả rất cụ thể, gợi cảm các diễn biến nội tâm qua các ý nghĩ, hành vi, ngôn ngữđặt biệt, diễn tả rất đúng và gây ấn tượng mạnh mẽ về sự ám ảnh, day dứt trong tâm trạng nhân vật. Khi nghe tin làng theo giặc thì dằn vặt đau khổ Khi nghe tin c ải chính thì vui tươi rạng rỡ hẳn lên. KL miêu tả đúng những phản ứng của một người nông dân hiền lành chất phác, chưa đọc thông viết thạo , khi muốn biết tin tức thì xem tranh ảnh vờ vờ , chờ người ta đọc rồi nghe lỏm. Khi nghe tin xấu thì cúi gằm mà đi. Khi nghe tin cải chính thì múa tay lên mà khoe .Đặc biệt là các hình thức trần thuật đối thoại, độc thoại . Tâm sự với con chính là tự nhủ với lòng mình , tự dặn lòng , đối thoại cũng là độc thoại , KL làm rõ trong tâm hồn ông Hai, không lúc nào nguôi ngoai nhớ quê, tin những điều tốt đẹp, cố giữ không vẩn đục, đón đợi một điều gì đỡ đau đớn tuyệt vọng hơn. GV cho HS hiểu việc chứng tỏ rằng Kim Lân am hiểu sâu sắc người nông dân và thế giới tinh thần của họ. 3.3 Ngôn ngữ và giọng điệu 3.3.1 Ngôn ngữ và giọng điệu của nhân vật + Ngôn ngữ Từ điển thuật ngữ văn học cũng khẳng định: “Trong tác phẩm, ngôn ngữ văn học là một trong những yếu tố quan trọng thể hiện cá tính sáng tạo, phong cách, tài năng của nhà văn. Mỗi nhà văn lớn bao giờ cũng là tấm gương sáng về mặt hiểu biết sâu sắc ngôn ngữ”.Vậy trong tác phẩm tự sự, trần thuật chính là thành phần lời sáng tạo của tác giả, của người trần thuật. Cho nên, ngôn ngữ trần thuật chính là nơi bộc lộ ý thức sử dụng ngôn ngữ có chủ ý của nhà văn. “Ngôn ngữ người trần thuật là phần lời độc thoại thể hiện quan điểm của tác giả hay quan điểm người kể chuyện đối với cuộc sống được miêu tả, có những nguyên tắc thống nhất trong việc lựa chọn và sử dụng các phương tiện tạo hình và biểu hiện ngôn ngữ”. Ngôn ngữ trần thuật mang tính chính xác, cá thể hóa. Có thể nói trong v
File đính kèm:
- sang_kien_kinh_nghiem_mot_so_huong_khai_thac_bien_phap_nghe.doc